Friday, October 30, 2015

Tỷ-kheo Ayyamitta và Gia Đình Tâm Đại Lượng Bố Thí

Có một gia đình gồm người mẹ và cô con gái sống trong một làng gần nơi Đại đức Ayyamitta thường hay đi bát. Mặc dù rất nghèo, nhưng họ luôn cố gắng bằng mọi cách cúng dường những vật dụng cần thiết mỗi ngày cho vị Tỷ-kheo đáng kính như thể ngài là một thành viên trong gia đình, như một người con trai. Một ngày nọ, trước khi ra đồng, người mẹ bảo cô con gái: “Này con, trong nhà còn một ít gạo từ mùa gặt trước, một ít sữa trong bếp, và một ít đường thô và bơ. Con hãy lấy mấy thức đó nấu thành món ăn để cúng dường cho người anh Tỳ-kheo của con. Phần còn lại thì con ăn sau nhé.

Cô con gái hỏi: “Thưa mẹ, còn mẹ sẽ ăn gì? Con sẽ chuẩn bị gì cho mẹ?”. Người mẹ đáp: “Mẹ vừa ăn xong miếng cơm nguội với nước tương”. Cô con gái hỏi tiếp: “Còn buổi trưa mẹ sẽ ăn gì?”. Người mẹ đáp lại: “Buổi trưa, con lấy ít gạo nát và rau nấumón cháo chua cho mẹ nhé.

Đại đức Ayyamitta, khi ấy đang chuẩn bị vào làng đi bát như thường lệ, nghe được cuộc nói chuyện của hai mẹ con bằng thiên nhĩ thông (dibba – sota). Đây là thần thông có năng lực nghe được tiếng nói từ khoảng cách xa.

Khi nghe câu chuyện trên, suy tư chân chánh của Đại đức khởi lên: “Người mẹ rộng lượng này vừa dùng bữa sáng đạm bạc của mình bằng cơm thừa với nước tương. Bây giờ, bà nói rằng bà sẽ dùng cháo chua trộn rau cho bữa trưa của mình. Còn ta, thì bà lại bảo cô con gái cúng dường món ngon nhất được nấu bằng đường, sữa và bơ.

Thực ra, bà ấy không hề mong đợi một sự đền đáp nào từ nơi ta như là mảnh đất trồng trọt, vật thực hay y phục. Bà chỉ mong ước từ phước thiện này sẽ có được ba quả là tái sanh làm người, trời hoặc chứng đắc Niết-bàn. Ta có thể cho bà ấy ba thứ này để đền đáp lại được không? Vì ta vẫn chưa hoàn toàn tận diệt tham (rāga), sân (dosa), si (moha), thật chưa chưa xứng đáng cho ta nhận phần để bát của gia đình đại lượng này”.

Nghĩ vậy, Đại đức liền đặt bát của mình trở vào bao và quay về hang. Sau khi cất bát dưới gầm giường và máng y lên, Đại đức ngồi xuống quyết tâm sắt đá hành thiền tinh tấn nỗ lực và quyết sẽ không rời khỏi hang nếu chưa đắc quả A-la-hán, giai đoạn cuối cùng của sự giác ngộ giải thoát.

Quyết định của vị ấy thật tốt đẹp biết bao nhiêu. Với một người như Đại đức Ayyamitta người đã từng hành trì miên mật nhiều năm, nên việc đắc quả A-la-hán là điều tất yếu. Ngay trước giờ ăn trưa, ngay trong thời ngồi đó ngài đã đắc quả vị A-la-hán. Với ánh hào quang của sự an tịnh và trong sạch, vị ấy ngồi trong hang tinh khiết như một đóa hoa sen mới nở.

Nhìn thấy sự kỳ diệu này, một vị thiên ở gần đó đã thốt lời khen ngợi và chúc tụng đến Đại đức: “Hỡi người anh hùng, tôi xin đảnh lễ ngài! Hỡi vị thánh, tôi xin đảnh lễ ngài! Vị Đại đức đã giải thoát khỏi mọi khổ đau! Tất cả lậu hoặc bị cạn khô, Ngài đã trở thành một bậc thánh đáng cung kính và đáng cúng dường”.

Sau những lời tán thán này, vị thiên thúc giục:
Do phước báu đặt bát với thiện tâm rộng lượng cúng dường cho một bậc đã giác ngộ như ngài, người phụ nữ lớn tuổi kia sẽ sớm thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi (saṃsāra). Xin ngài hãy tiếp tục vào làng đi bát.
Rồi, Đại đức Ayyamitta mang bát vào làng.

Câu chuyện này cho ta thấy rằng nhờ việc quán tưởng đời sống của vị tăng lệ thuộc vào thí chủ sẽ có sự khởi sinh ý thức trách nhiệm trân trọng và đền ơn thí chủ bằng cách nỗ lực tinh tấn hành trì. Hơn nữa, như là kết quả của việc tuân thủ sự quán tưởng này, sẽ không có việc sử dụng tứ vật dụng hời hợt và thiếu quán xét như lời Đức Phật đã dạy.

Bằng cách tuân thủ sự quán tưởng này, nó chẳng những giúp cho vị Tỷ-kheo giữ Giớinuôi mạng thanh tịnh (Ājīva pārisuddhi sīla) trong sạch mà còn giúp giữ Giới quán tưởng tứ vật dụng (Paccayasannissita Sīla) trong sạch. Giới quán tưởng tứ vật dụng (Paccayasannissita Sīla) là giới liên quan đến việc thọ dụng tứ vật dụng. Kính trọng việc đặt bát bằng sự cam kết hành trì sẽ dẫn dắt vị ấy chứng quả A-la-hán. Thực vậy, sự quán tưởng thứ hai cần được tuân thủ bởi người xuất gia.


Thiền Sư Pa-Auk Tawya Sayādaw
Trung Tâm Thiền Pa-Auk Tawya, Mawlamyine.
Phật lịch 2547
Myanmar, Năm 1365, Rằm Tháng Taw-da-lin
Ngày 10/9/2003