Nhìn từ góc độ của cuộc sống đời thường, thì hình
như không phải là như vậy. Ở góc nhìn ấy,
chánh niệm, hay sự chú ý, chỉ đóng một vai
trò rất khiêm tốn giữa biết bao những phẩm chất tâm dường như quan trọng hơn để đạt được những mong ước đa dạng của con người. Ở đó, chánh niệm chỉ có nghĩa là “quan sát bước đi của mình” để không bị va vấp hay đánh mất cơ hội khi theo đuổi những mục tiêu trong cuộc sống. Chỉ trong trường hợp phải thực hiện một số kỹ năng hay nhiệm vụ nhất định nào đó thì
đôi khi con người ta mới chủ động tập luyện chánh niệm đôi chút,
nhưng ngay cả khi đó chánh niệm cũng
chỉ được coi là vai trò thứ yếu, phạm vi và năng
lực rộng lớn của chánh niệm vẫn chưa được con người biết đến và công nhận.
Ngay cả khi tìm về với giáo lý của Đức Phật, nhìn
qua một lượt những sự sắp xếp và phân loại, danh sách
các tâm sở mà chánh niệm có mặt trong đó,
thì người ta vẫn có xu hướng cho rằng phẩm chất tâm
này cũng chỉ là “một trong
số rất nhiều” phẩm chất tâm
khác mà thôi. Và một lần nữa, người ta lại có ấn tượng rằng nó chỉ đóng một vai phụ và dễ dàng bị các phẩm chất tâm khác vượt trội.
Thực tế, nếu có thể nhân cách hóa, thì chánh niệm là một nhân
vật rất khiêm
tốn. So sánh với nó
thì các tâm sở (phẩm chất) như tín (đức tin),
tấn (tinh tấn), định (định tâm)
hay tuệ chắc chắn là những nhân vật nổi bật hơn, gây tác động mạnh và ngay lập tức đối với người khác và tới các
tình huống. Sự chinh phục của chúng
đôi khi rất nhanh chóng và mạnh mẽ, mặc dù thường bấp bênh.
Chánh niệm, ngược lại, thường kín đáo và
ít phô trương. Những công dụng của chánh niệm tỏa sáng vào
bên trong, và trong cuộc sống thường ngày, hầu hết những thành quả của nó được chuyển giao
cho các thể loại tâm khác – chúng thường nhận hết phần danh
dự. Chúng ta phải hiểu rõ
chánh niệm và luyện tập thành
thục trước khi có thể nhận ra được giá trị và những ảnh hưởng xuyên thấu thầm lặng của nó. Chánh
niệm tiến triển một cách chậm chạp và có chủ ý, và nhiệm vụ hàng ngày của nó được thực hiện một cách đều đặn, thầm lặng. Tuy
nhiên, nơi nào chánh niệm đã đặt chân đến, nó không dễ bị mất chỗ đứng, và sẽ thực sự làm chủ lĩnh vực đang phụ trách.
Những năng lực tâm linh như vậy, cũng như những con người có thể loại cá tính tương tự, lại thường hay bị bỏ qua hoặc đánh giá thấp. Chánh niệm cần đến một thiên tài
như Đức Phật để phát hiện ra được “tài năng bị dấu kín” ẩn dưới vẻ bề ngoài khiêm tốn, và phát triển sức mạnh vĩ đại vốn có của hạt giống tiềm năng ấy. Thực ra, dấu hiệu của một thiên tài thực sự lại chính là khả năng nhận ra và khai
thác được sức mạnh của những cái tưởng chừng như là nhỏ bé ấy. Ở đây, thực sự đúng là “cái bé nhỏ đã trở thành vĩ đại”. Các
giá trị đã được đánh giá lại. Tiêu chuẩn để phân định giữa sự vĩ đại và cái nhỏ bé đã thay đổi. Từ cái tâm siêu việt của Đức Phật, cuối cùng chánh
niệm đã được bộc lộ ra như một điểm chốt nơi luân hồi đau
khổ bị nhổ bật khỏi hai mỏ neo là vô minh và ái dục.
Đức Phật nói về sức mạnh của chánh
niệm một cách
rất rõ ràng:
“Chánh niệm, ta tuyên bố, lợi ích ở tất cả mọi nơi”. (SN
46:59)
“Tất cả các pháp được làm chủ thuần thục nhờ chánh niệm”. (AN 8:83).
Hơn nữa, có cả một đoạn mở đầu và kết thúc rất trọng thể và có sức nặng của bài kinh Tứ Niệm Xứ (satipatthāna sutta) như sau:
“Này các Tỳ Khưu, đây là con đường duy nhất để thanh tịnh chúng sanh, vượt khỏi sầu, ưu, đoạn diệt đau khổ, đạt đến chánh đạo, chứng ngộ Niết Bàn, đó là tứ niệm xứ”.
Trong cuộc sống thường ngày, nếu chánh niệm, hay sự chú ý (một cách
có chủ đích, có ý thức) được hướng tới một đối tượng nào đó, hiếm khi nó duy
trì được đủ lâu để quan sát một cách cẩn thận và thực tế. Thông
thường theo ngay sau đó là các phản ứng mang tính
cảm xúc, suy nghĩ phân tích, những dòng hồi tưởng hoặc là hành động có chủ ý. Ngay cả trong một cuộc sống tu tập với cách
suy nghĩ thuận pháp, chánh niệm (sati) hầu hết được gắn với sự tỉnh giác (sampajañña) về tính thích hợp và mục đích của hành động, cùng với những sự cân nhắc khác.
Do đó, nó lại vẫn không được nhìn nhận như một phẩm chất tâm độc lập. Song
để tiếp cận được sức mạnh thực sự và tiềm năng của chánh niệm thì cần phải hiểu và
chú ý phát triển một thể loại cơ bản và nguyên chất nhất của nó –
cái mà chúng ta sẽ gọi là sự ghi nhận thuần túy.
Bằng sự ghi nhận thuần túy, chúng
ta hiểu được sự ý thức, sự hay biết một cách
trong sáng và toàn tâm toàn ý về những gì đang thực sự diễn ra đối với chúng ta và ở trong chúng ta, trong từng khoảnh khắc nhận thức tiếp nối nhau.
Nó được gọi là “thuần túy” bởi vì nó xử lý những sự kiện nhận thức thuần túy
mà không phản ứng lại bằng những suy
nghĩ bình luận, lời nói
hay hành động. Thông thường, trạng thái tâm
ghi nhận thuần túy đó, như chúng ta gọi, chỉ là một giai đoạn rất ngắn ngủi của tiến trình tâm
mà chúng ta hiếm khi ý
thức được. Nhưng trong quá trình phát triển chánh
niệm một cách
có bài bản và theo phương pháp, nhằm khai
mở những năng lực tiềm ẩn của nó, ghi nhận thuần túy được duy trì kéo
dài trong suốt thời gian
mà định lực của thiền sinh cho
phép. Khi đó, ghi nhận thuần túy trở thành chìa khóa cho pháp hành thiền Tứ Niệm Xứ, mở rộng cánh cửa đi vào làm
chủ nội tâm và giác ngộ, giải thoát
tối hậu.
Ghi nhận thuần túy được phát triển theo hai
cách:
1. Theo một phương pháp hành
thiền có bài bản với một số đề mục lựa chọn.
2. Áp dụng ghi
nhận thuần túy,
trong khả năng thực tế cho phép, trong các công việc hàng ngày của cuộc sống, cùng với một thái độ chánh niệm và tỉnh giác
trong mọi lúc.
Phương pháp thực hành chi tiết đã được đề cập ở nhiều chỗ khác, và không cần thiết nhắc lại ở đây[1][1].
Mục đích chính là
để diễn giải và trình
bày tính hiệu quả của phương pháp,
nghĩa là diễn giải sức mạnh thực sự của chánh
niệm. Nhất là ở thời đại hiện nay, với sự mê tín và sùng bái những hoạt động của thế giới bên ngoài đang diễn ra không ngừng nghỉ, sẽ có những người đặt câu hỏi rằng: “Làm sao
một thái độ thụ động như ghi nhận thuần túy lại có thể đem đến những kết quả vĩ đại như vậy được?”. Để trả lời, bạn hãy gợi ý người hỏi không nên dựa vào những lời nói của người khác, mà
hãy dùng chính kinh nghiệm thực hành
thực tế của mình để thể nghiệm lời khẳng định ấy của Đức Phật. Song
đối với những người chưa đủ hiểu biết về Phật Pháp để chấp nhận nó như là một phương pháp đáng
tin cậy, sẽ do dự khi bắt tay thực hành mà chưa có một lý do thuyết phục – đây
là một phương pháp, mà bởi vì quá đơn giản nên có vẻ như hơi lạ lùng đối với họ. Và sau đây
sẽ là một số “lý do đáng thuyết phục” để cho độc giả suy xét. Nó cũng được coi như một lời giới thiệu cho tinh thần chung của thiền Tứ Niệm Xứ và là biển chỉ đường để tiếp cận đến những phương diện rộng lớn và ý
nghĩa của nó. Hơn nữa, hy vọng rằng đối với những người đã thực hành
theo phương pháp sẽ nhận ra, từ những phần diễn giảng này, một số điểm trong sự thực hành của chính mình,
và do vậy sẽ có thêm sự khích lệ để phát triển chúng
một cách có chủ ý.
[1][1] Xem thêm trong cuốn Tinh yếu thiền Phật giáo của Đại trưởng
lão Thiền sư Nyanaphonika (Sư Tâm Pháp
dịch Việt).