Khổ đế
là một trong bốn sự thật cao quý, chắc thật và đứng đắn nhất mà Đức Phật Thích
Ca Mâu Ni đã phát hiện về bản chất của đời sống. Khổ đế xác định rằng cuộc đời
là khổ, một sự thật mà không ai có thể chối cãi. Sự khổ trong thế gian là vô
cùng, nhưng căn cứ vào kinh điển, có thể thấy khổ được nhìn theo hai cách. Xét
về tác động của khổ lên toàn bộ thế gian, mà ta có thể nói là nhìn theo vũ trụ
quan, sự khổ có mặt dưới ba hình thức là hoại khổ, hành khổ và khổ khổ. Về tác
động của khổ lên từng chúng sinh một, cụ thế là chúng sinh thuộc loài người, điều
mà từ đó giúp ta có thể nói là nhìn theo nhân sinh quan, khổ được thể hiện ở
tám hình thức khác nhau, từ những khổ vì sinh lão bệnh tử đến nỗi khổ vì sự hoạt
động của năm ấm. Dưới đây, chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu về sự khổ theo vũ trụ
quan và sự khổ theo nhân sinh quan.
I. Sự
khổ nhìn theo vũ trụ quan
Toàn bộ
thế gian đều chịu sự biến hoại theo thời gian, là một nguyên nhân chắc thật của
sự khổ, gọi là hoại khổ. Toàn bộ thế gian đều biến chuyển không ngừng nghỉ,
cũng là một nguyên nhân chắc thật khác của khổ, gọi là hành khổ. Trong toàn bộ
thế gian, không tìm được phương nào để tránh được sự khổ, cũng không chờ đến
lúc nào thoát được sự khổ, nỗi khổ chồng chất lên nhau, gọi là khổ khổ. Toàn bộ
thế gian, nghĩa là hết thảy chúng sinh ở mọi phương thời luôn luôn chịu tác động
của sự khổ. Vũ trụ vận hành thần tốc theo trùng trùng duyên khởi tác động lên
vô lượng chúng sanh, gom gọn thành 15 hạng khác nhau, mỗi hạng có cách nhìn về
sự khổ khác nhau, tạm chia thành bốn cách nhìn:
1.
Theo nghiệp cảm duyên khởi: tác động đến mọ chúng sanh trong ba cõi: cõi Dục,
cõi Sắc và cõi Vô sắc.
a. Ở
cõi Dục có sáu hạng chúng sanh chấp có các pháp, luôn khao khát chiếm hữu ngoại
sắc vun bồi cho thân căn phù trần.
Chúng
sanh thuộc các tầng Đia ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh và Atula (bốn đường ác) có tâm
thức quá si mê, chấp “các pháp có mà thật”. Khi thân căn sinh lý khởi dục vọng,
các chúng sanh này sanh tâm chiếm hữu ngoại sắc theo bản năng nhằm đáp ứng nhu
cầu sinh tồn hạ tiện, thô tháo. Khi chiếm được các chúng sanh này có cảm giác
sung sướng, nhưng cảm giác đó không giữ được lâu. Nếu không chiếm được, chúng
sanh cảm thấy khổ. Trong mọi hoàn cảnh, các chúng sanh này luôn buông xuôi chấp
nhận hoàn cảnh không biết cải sửa, vì thế
khổ chồng thêm khổ.
Chúng
sanh thuộc tầng Người và trời cõi Dục (hai đường thiện) có tâm thức tiến hóa
hơn, hiểu được các pháp luôn biến đổi và không cố định nên có mà không thật.
Khi thân căn sinh lý có nhu cầu, các chúng sanh này biết tìm mọi biện pháp tập
trung một căn phù trần vào một đối tượng ngoại sắc rồi dùng ý chí, kinh nghiệm
chiếm hữu sự vật một cách vi tế. Biết chuyển đổi hoàn cảnh khổ thành lạc, thay
đổi cách chiếm hữu để tận hưởng niềm hỷ lạc dài lâu, do đó nhẹ được khổ khổ.
Tóm lại,
ở cõi Dục, đối với những chúng sanh ở bốn đường ác, do tâm thức quá u tối, chỉ
biết hành động chiếm hữu theo bản năng và chấp nhận hoàn cảnh nên khổ khổ là
chính; trong khi đó, chúng sanh ở hai đường thiện nhờ có ý chí và kinh nghiệm,
biết cải sửa cách chiếm hữu tế nhị, mang lại nhiều hạnh phúc trong cuộc sống,
giảm được khổ khổ.
b. Ở
cõi Sắc: Đến các cảnh giới sơ thiền, nhị thiền và tam thiền, hành giả có tâm thức
tiến hóa, biết duyên hợp của các pháp, biết chiếm hữu nội sắc vun bồi cho thân
căn tịnh sắc
Theo
thời gian, chúng sanh ở cõi Sắc nhàm chán cảnh tranh giành chiếm hữu để mưu cầu
hạnh phúc, đi tìm cách chiếm hữu thanh cao hơn. Do được học tập thiền định từ
kinh sách, các chúng sanh này, nay được coi là hành giả, biết chiếm hữu nội sắc
tiếp xúc với thân căn tịnh sắc để phát sinh hỷ-lạc do mình tự tạo. Ở bậc sơ thiền,
hành giả tuy chưa đạt định, nhưng đã từng bước buông bỏ ngoại sắc trở về nội
tâm để có hỷ-lạc; đến nhị thiền, hành giả đạt “nội tỉnh nhất tâm”, khi gặp nghịch
duyên lập tức nhập định an trú trong hỷ-lạc; vào được tam thiền, hành giả đạt
“ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác” và an trú tron diệu lạc, do đó dường như dứt
khổ khổ.
Như vậy,
ở cõi Sắc, hành giả tu tập thiền định từ sơ thiền thăng hoa dần đến tam thiền đạt
chánh niệm tỉnh giác, tập trung an trú trong định, bỏ chiếm hữu bên ngoài, do
đó không bị ngoại cảnh chi phối, dường như dứt khổ khổ, nhưng còn chịu hoại khổ
chi phối…
c. Ở
cõi Vô Sắc: Vào đến tứ thiền của sắc giới là hành giả đã hân hưởng sự thanh tịnh
của cõi vô sắc. Tại đấy và ở tứ Không, hành giả có tâm thức thăng hoa rất vi tế,
dường như dứt được hoại khổ và hành khổ.
An trú
lâu trong tam thiền, hành giả khởi lên tư tưởng nhàm chán, dùng sức định đè nén
“xả niệm lạc, tâm thanh tịnh”, thăng hoa lên Tứ thiền thuần tư tưởng, nương
thân căn tịnh sắc vi tế phát sinh niệm nhớ nghĩ, thấy được duyên khởi của các
pháp; từ đó, hành giả sống an nhàn tự tại trong “hiện tại lạc trú” không dính mắc
vào nội – ngoại sắc, do đó dường như chấm dứt hoại khổ.
Có tư
tưởng nhàm chán, hành giả tập trung định lực tiêu dung thân căn tịnh sắc vi tế
và niệm nhớ nghĩ thăng hoa lên Không vô biên xứ có thân-tâm-cảnh đều là không
gian chuyển biến chu kỳ; nơi đây, hành giả nhận thức rõ hơn về hoại khổ. Lại có
tư tưởng nhàm chán, hành giả tập trung định mạnh hơn, kỹ hơn để thấy được hoại
khổ của sắc, thọ, tưởng và thăng hoa lên Thức vô biên xứ có thân-tâm-cảnh đều
chuyển biến sát na, nơi đây, dường như hành giả chấm dứt hoại khổ và nhận thức
rõ hơn về hành khổ. Với tư tưởng tập trung định lực mạnh hơn nữa, hành giả thấy
được chuyển biến sát-na của các pháp, thăng hoa lên Vô sở hữu xứ có thân-tâm-cảnh
là Chân không, bất biến đứng lặng, dường như chấm dứt hành khổ. Lại nhàm chán,
hành giả tiếp tục tập trung định mạnh, kỹ, lâu, và sâu thăng hoa lên Phi tưởng
phi phi tưởng xứ, khi bặt niệm thì vũ trụ là Chân không, lúc khởi niệm thì pháp
giới hiện bày hành giả tự tại trong pháp giới, tất cả không còn gì để dính mắc,
dường như chấm dứt hoàn toàn hành khổ.
Vậy, ở
cõi Vô Sắc, hành giả thăng hoa thiền định, có tâm thức tiến hóa vi tế; tại Tứ
thiền ở “hiện tại lạc trú” và tại Tứ không ở “tịch tịch trú”, hành giả không
còn bị nội, ngoại sắc chi phối, dường như dứt hoại khổ và hành khổ.
2.
Theo Alaya duyên khởi: đây là thế giới chuyển biến sát-na của ba bậc Thánh hữu
học đã nhận lại Phật tánh, tùy cấp độ chứng đắc lăng lẽ chiếu kiến thấy rõ từng
phần tiến trình chuyển biến chu kỳ trong hai cõi: cõi Dục và cõi Sắc.
.
Thánh Nhập lưu nhận lại 1/4 Phật tánh. Lặng lẽ thấy rõ tiến trình sinh khởi dục
vọng dẫn đến hành động chiếm hữu ngoại sắc theo bản năng nên khổ khổ. Sống tự tại
trong bốn đường ác mà không dính mắc, chấm dứt khổ khổ của bốn đường ác.
.
Thánh Nhất lai nhận lại 2/4 Phật tánh. Lặng lẽ thấy rõ tiến trình ý chí, kinh
nghiệm của người và trời cõi Dục, cải sửa hành động chiếm hữu bản năng làm nhẹ
khổ khổ. Sống thật tự tại trong cõi Dục mà không dính mắc vào cảm giác do chiếm
hữu ngoại sắc, chấm dứt khổ khổ cõi Dục tức chấm dứt hoại khổ về sắc.
.
Thánh Bất lai nhận lại 3/4 Phật tánh. Lặng lẽ thấy rõ tiến trình ý chí, kinh
nghiệm của cõi Sắc bỏ chiếm hữu ngoại sắc sang chiếm hữu nội sắc, chuyển khổ thọ
thành lạc thọ. Sống thật tự tại trong cõi Sắc mà không dính mắc vào cảm giác do
chiếm hữu nội sắc, chấm dứt lạc thọ-khổ thọ của cõi Sắc tức chấm dứt hoại khổ về
thọ.
3.
Theo Chân như duyên khởi: đây là thế giới bất biến đứng lặng của bậc Thánh vô học
đã nhận lại trọn vẹn Phật tánh.
Thánh
A-la-hán nhận lại trọn vẹn Phật tánh. Lặng lẽ thấy rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt,
vị ngọt, sự nguy hiểm, sự xuất ly ra khỏi các cảm thọ và lặng lẽ thấy rõ dòng
chuyển biến sát-na làm nền tảng duyên khởi cho sự chuyển biến chu kỳ hình thành
ba cõi. Chấm dứt vô minh về nhân sinh quan, sống tự tại trong ba cõi mà không
dính mắc, tức chấm dứt hoàn toàn hoại khổ.
4.
Theo Pháp giới duyên khởi: đây là thế giới chuyển biến thần tốc mà bất biến đứng
lặng, bất biến đứng lặng mà chuyển biến thần tốc, thế giới bất khả tư nghì của
chư đại Bồ-tát và chư Như Lai.
Từ
Chân tâm, bậc Duyên giác và các vị Bồ-tát Thánh nhìn vào pháp giới, thấy chúng
sanh ngụp lặn trong biển khổ, với từ tâm và bi mẫn,các Ngài thị hiện ứng hóa
thân một đến nhiều chúng sanh trong một cõi đến nhiều cõi để từng bước tự tại
đi vào pháp giới cứu độ chúng sanh, chấm dứt từng phần hành khổ. Đến khi nhờ tự
tại lực mà lập tức ứng hiện vô lượng chúng sanh trong toàn thể pháp giới thành
Như Lai thì hoàn toàn chấm dứt hành khổ.
II. Sự
khổ nhìn theo nhân sinh quan
Nếu
toàn bộ thế gian đã luôn luôn chịu tác động của sự khổ thì từng chúng sanh một
trong toàn thế gian ấy cũng không thể nào tránh được sự khổ. Được gọi là chúng
sanh gồm có tất cả những đối tượng có thân và có tâm cùng sống trong thế gian,
cũng có thể hiểu chúng sanh là mọi dạng thức của sự sống tồn tại trong vũ trụ.
Kinh điển ghi nhận 15 dạng chúng sanh, chia làm bốn bậc:
A. Bậc
Tam Tôn: gồm 1. Như Lai; 2. Bồ-tát; 3. Bích chi và Duyên giác.
B. Tiểu
Thánh: gồm 4. A-la-hán, 5. Bất lai; 6. Nhất lai; 7. Nhập lưu.
C. Bốn
đường Thiện: gồm 8. cõi Vô sắc; 9. cõi Sắc; 10. Trời cõi Dục; 11. Người.
D. Bốn
đường Ác: gồm 12. A-tu-la; 13. Súc sanh; 14. Ngạ quỷ, 15. Địa ngục.
Đặc điểm
của chúng sanh là chịu tác động của sự khổ trên ba phương diện, Thân, Tâm và Cảnh.
Thân:
mọi chúng sanh đều có xác thân hợp thành bởi tứ đại, thuộc sinh lý, với ba
thành phần: Phù trần căn gồm năm giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, da và các cơ
quan khác như tim, phổi, ruột già, ruột non, gan, thận, mật…nơi duyên khởi ra dục
vọng bản năng; Tịnh sắc căn gồm hệ thống dây thần kinh của năm giác quan,…nơi
duyên khởi ra cảm giác vui, buồn, không vui không buồn; và Tịnh sắc căn vi tế
là trung khu thần kinh não, nơi duyên khởi ra tư tưởng phân biệt.
Tâm
chính là sự hiểu biết, thuộc tâm lý.
Cảnh:
chính là hoàn cảnh, là môi trường nơi các chúng sanh cùng chung sống, thuộc vật
lý.
Trong
cuộc sống, chúng sanh lệ thuộc vào nhu cầu sinh lý của thân căn nên luôn bám
víu trần cảnh để chiếm hữu, vì vậy tâm lăng xăng so đo phân biệt mãi mà sinh
đau khổ. Tạm chia thành tám hình thức khổ có ảnh hưởng trực tiếp đến từng chúng
sanh như sau:
Bốn nỗi
khổ về thân: Sinh; già; bệnh; chết.
Ba nỗi
khổ về hoàn cảnh: Thương yêu xa lìa; thù oán gặp gỡ; ham muốn không được.
Một nỗi
khổ về tâm: gọi là Ngũ ấm sí thạnh khổ. Ngũ ấm hay năm uẩn gồm sắc uẩn chưa có
cái biết; thọ uẩn là cái biết chưa phân biệt; tưởng uẩn là cái biết phân biệt;
hành uẩn là cái biết có đắn đo, lựa chọn, quyết định hành động tạo nghiệp; và
thức uẩn là hành động chứa kinh nghiệm, kiến thức, ký ức, tội, phước,… Có thể
coi đây là năm trường hợp phản ứng khi chúng sanh tiếp xúc với ngoại sắc, chúng
bừng bừng như lửa hừng (sí thạnh) cho nên là mấu chốt phát sinh bảy sự khổ
trên.
Khi
thân căn sinh lý đủ duyên tiếp xúc với trần cảnh vật lý thì đương nhiên xảy ra
tiến trình năm uẩn và phát hiện tâm thức trải dài qua 15 hạng chúng sanh. Tâm
thức dừng lại ở đâu thì tương ứng với hạng chúng sanh ỏ đó và sinh khởi cái khổ.
Tâm thức
dừng ở thế giới chuyển biến xao động:
Ở cõi
Dục:
Với
hàng chúng sanh ở Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh và A-tu-la, vì tâm thức quá si
mê, khi thân căn tiếp xúc trần cảnh, chỉ có cái nhìn, cái thấy lờ mờ, cái phân
biệt lờ mờ, chỉ có cảm giác tư tưởng đơn thuần xúi giục thân hành động theo bản
năng sinh tồn của thân phù trần.Bất lạc bất khổ thọ (cảm thọ ở trạng thái trơ
lì) trước mọi hoàn cảnh, nên chẳng màng tới sinh, già, bệnh, chết,…
Với
chúng sanh mang thân người: Tâm thức có ý chí, biết cải sửa bất lạc bất khổ thọ
thành lạc thọ hoặc khổ thọ. Khi thân căn tiếp xúc trần cảnh, các cảm giác vui,
buồn hoặc không vui không buồn sinh khởi, dùng ý chí cải sửa hành động bản năng
hoặc thay đổi môi trường nhằm kéo dài niềm vui và biết tìm cách đè nén, chạy trốn
chấm dứt cái khổ. Tuy nhiên vì chưa có kinh nghiệm nên thường thất bại, do đó
thấy vui chóng tàn mà khổ thì dai dẳng.
Với
chúng sanh là Trời cõi Dục: Khi đối cảnh, dùng ý chí và kinh nghiệm đẩy lùi cái
khổ, tạo nhiều niềm vui bằng cách lao vào công việc qua nhiều hình thức: rộng
rãi bố thí, ủy lạo, phóng sanh,… hoặc say sưa nghiên cứu các đề tài khoa học
sáng tạo ra của cải vật chất,…sáng tác văn, thơ, ca nhạc,… phục vụ nhân loại về
thể xác lẫn tinh thần nhằm lưu danh cho đời biết đến mình và tôn vinh mình. Nhờ
cuốn hút vào công việc dường như tám khổ không chi phối.
Ở cõi
Sắc (Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền): Tâm thức tiến hóa, có kinh nghiệm, kiến
thức,… dồi dào, thông qua giáo lý, chọn tịnh sắc làm thân, trở về nội tâm chỉ
còn “ta với ta”. Tu thiền định “ly ngũ dục, nội tỉnh nhất tâm, chánh niệm tỉnh
giác” phát sinh hỷ-lạc xóa tan khổ. Khi đối cảnh, an trú trong hỷ lạc, tâm khởi
tình thương, cảm thông, an ủi, san sẻ nỗi khổ đau mong đem lại sự an vui cho mọi
người.
Ở cõi
Vô sắc (Tứ thiền cõi Sắc và Tứ không: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở
hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ): Tứ thiền, có kinh nghiệm,… tuyệt chiêu, chọn
tịnh sắc vi tế làm thân, vào định kỹ lâu sau “xả niệm thanh tịnh” còn thuần tưởng,
biết được tiến trình năm uẩn tập khởi, đoạn diệt, vin ngọt,… Tứ không dùng định
lực siêu xuất tiêu dung thân căn hòa vào
hư không. Tứ thiền an trú trong “hiện tại lạc thú”, Tứ không an trú trong “tịch
tịnh trú”, sống an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh, 8 khổ không còn chi phối.
Cõi Dục,
cõi Sắc, và cõi Vô sắc đều là thế giới của tư tưởng phân biệt chấp thủ nên luôn
bị khổ hoành hành. Chúng sanh các cõi này trừ khổ bằng cách thanh lọc thăng hoa
tư tưởng, từng bước buon xã tình nhiễm xấu ác sang thiện đến khi chỉ còn thuần
tư tưởng, nhưng tư tưởng vốn nhàm chán nên trở lại dính mắc vào tình, do đó lẩn
quẩn mãi không thoát được khổ.
Tâm thức
dừng ở thế giới chuyển biến đứng lặng:
Ray rứt
trước cảnh khổ, da diết tìm con đường đoạn diệt khổ đau!!! Cơ duyên gặp Phật
pháp, y chỉ “Tứ Diệu Đế”, hiểu rõ nguyên
nhân đưa đến khổ và cách tu tập chấm dứt
khổ.
-
Thánh Nhập lưu: quá trình tu tập tâm thức sáng suốt có thiện tri thức hướng dẫn
“ngay trong sanh tử nhận lại cái vô sanh, Bất tử”, rồi lặng lẽ nhìn thấy rõ biết
ngay chính trong xác thân tiến trình năm uẩn của Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc Sanh,
A-tu-la diễn biến như thế nào nhận như thế nấy không cải sửa, vì rõ biết không
dính mắc hành động bản năng của bốn đường ác
- Thánh
Nhất lai: tiếp tục với cái Bất tử, lặng lẽ thấy biết rõ ngay trong xác thân tiến
trình năm uẩn của Người và trời cõi Dục diễn biến như thế nào nhận như thế nấy,
không đặt vấn đề so đo phân biệt vì rõ biết nên không dính mắc vào cải sửa hành
động của Người và trời cõi Dục
-
Thánh Bất lai: tiếp tục với cái Bất tử, lặng lẽ thấy biết rõ ngay trong xác
thân tiến trình năm uẩn của Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền diễn biến như thế
nào nhận như thế nấy, vì rõ biết nên không dính mắc vào cảm giác hỷ lạc của cõi
Sắc.
Ba bậc
thánh trên đã trở về nhận lại cái bất tử, tùy mức độ chứng đắc mà thoát khổ về
thân, tâm, cảnh của bảy hạng chúng sanh trong cõi Dục và cõi Sắc.
Tâm thức
dừng ở bản thể chân tâm:
Thánh
A-la-hán: tiếp tục với cái Bất tử, lặng lẽ như thật biết tiến trình năm uẩn tập
khởi, đoạn diệt, vị ngọt và sự xuất ly ra khỏi cảm thọ của Tứ thiền sắc giới, Tứ
không như thế nào nhận như thế này và tiến trình tu tập trở về của ba bậc thánh
đầu tức biết rõ duyên khởi của các pháp, niệm-niệm sinh diệt của ý chí chi mạt
vô minh của chính mình. Trong mọi hoàn cảnh luôn luôn trực nhận về Bản thể Chân
tâm, Bất tử, vì vậy sống trong sự tự tại tong cuộc đời mà không dính mắc chấm dứt
hoàn toàn khổ theo nhân sinh quan tức chấm dứt tám khổ.
Chân
tâm hòa vào tâm thức từng chúng sanh:
-
Bích-chi Duyên giác hòa nhập vào cuộc đời làm quen dần với loài người mà không
rời Chân tâm, Bất tử.
- Bồ
tát Thánh, phát tâm đại từ bi, huyễn hiện thân căn, trầm mình trong đau khổ để
độ từ một chúng sanh trong một cõi đến nhiều chúng sanh trong nhiều cõi nhưng
không rời Chân tâm, Bất tử.
- Như
lai với tâm bình đẳng, tự tại lập tức ứng hóa vô lượng thân trong vô biên cõi để
độ chúng sanh khăp vũ trụ mà tâm như bất động. Pháp Thân Như Lai chính là toàn
thể thân chúng sanh trong vũ trụ và cũng chính là Chân tâm, Bất tử.
Vậy chỉ
có Như Lai mới thật sự là Chân lạc hay Cực lạc.
Tóm lại,
xác thân năm uẩn của con người là một tiểu vũ trụ. Và năm uẩn vận hành theo tiến
trình tự nhiên hình thành ra 15 hạng chúng sanh trong vũ trụ, nhưng vì chúng
sanh mê muội tự dừng chân chấp thủ năm uẩn này làm “Ta, của Ta, tự ngã của Ta”
mà sinh đau khổ. Thương chúng sanh mê muội luân hồi trong biển khổ, Phật ra đời
truyền pháp “Tứ Diệu Đế” chỉ dạy chúng sanh nguyên nhân dẫn đến khổ, thực hành
Thánh Giới – Thánh Định – Thánh Tuệ thoát khổ hưởng chân lạc. ■
VẦNG
ĐÔNG +++