Người thiết tha dâng hiến đời mình cho việc hoàn thiện về
đạo đức , tự phát triển về tâm linh sẽ có một ảnh hưởng năng động và mạnh mẽ
cho điều tốt trong cuộc đời , ngay cả khi người ấy không tham gia vào bất kỳ hoạt
động nào cóa tính cách phục vụ xã hội .
Kinh Tương ưng Niệm xứ số 19 có thuật lại việc Đức Phật
kể cho các Tỳ-kheo câu chuyện như sau : Hồi trước có một đôi nghệ sĩ tung hứng
chuyên trình diễn các màn nhào lộn trên một cây sào tre . Một hôm , người thầy
bảo người học việc : “ Con đứng lên vai ta rồi leo lên cây sào tre ”. Sau khi
người học việc thực hiện mệnh lệnh ấy , người thầy lại nói : “ Bây giờ thì con
hãy bảo vệ ta , và ta sẽ bảo vệ con . Bằng cách quan sát và bảo vệ lẫn nhau .
Như vậy , chúng ta sẽ có thể biểu diễn tài năng của mình , kiếm được tiền và sẽ
leo xuống khỏi cây sào tre một cách an toàn ” Nhưng người học việc trả lời : “
Không phải vậy , thưa thầy ! Thầy nên tự bảo vệ lấy mình , và con cũng tự bảo vệ
con . Tự bảo vệ và tự cảnh giác như vậy , thầy trò ta sẽ trình bày màn biểu diễn
của mình an toàn ”.
Đức Thế Tôn cho rằng đó là biện pháp thích hợp và nói
thêm như sau : “ Giống như điều người học việc nói , ‘con sẽ tự phòng hộ’ . Tứ
niệm xứ cần được thực hành như vậy . Đang khi tự phòng hộ , hành giả phòng hộ
người khác ; đang khi phòng hộ người khác , hành giả tự phòng hộ mình . Và ,
làm thế nào đế một người , trong lúc tự phòng hộ mình , phòng hộ được cho người
khác ? Bằng cách thường xuyên thực hành thiền định . Và làm thế nào để một người
, trong lúc phòng hộ người khác , tự phòng hộ cho mình ? Bằng nhẫn nhục và độ
lượng , bằng cuộc sống không gây hại , và không bạo lực , bằng từ ái và bi mẫn ”.
Bài kinh này thuộc về số lượng đáng kể những giáo pháp
thực tiễn nổi bật và quan trọng của Đức Phật vẫn bị lãng quên như một kho báu bị
chôn vùi , ít được biết đến và không được áp dụng . Thế nhưng bản kinh này mang
một thông điệp quan trọng và việc bản kinh này gắn với kinh Niệm xứ càng nhắc
nhở chúng ta phải quan tâm hơn .
Cá nhân và xã hội
Bản kinh bàn tới mối liên hệ giữa chúng ta với những người
chung quanh , giữa cá nhân với xã hội . Bản kinh kết luận một cách cô đọng về
thái độ của Đức Phật đối với những vấn đề về đạo đức xã hội và cá nhân , về
thói vị kỹ và lòng vị tha . Ý chính của bản kinh chứa đựng trong hai câu ngắn gọn
: Đang khi tự phòng hộ , hành già phòng hộ người khác . Đang khi phòng hộ người
khác , hành giả tự phòng hộ . Hai câu này bổ túc cho nhau và không thể được
trích dẫn riêng lẻ . Ngày nay khi hoạt động xã hội được nhấn mạnh thái quá ,
con người có thể bị xúi giục để hỗ trợ cho những yq tưởng của họ bằng cách chỉ
trích dẫn câu sau . Nhưng bất kỳ trường hợp trích dẫn một phía nào như thế cũng
đều làm sai lạc lời dạy của Đức Phật .
Cần nhớ rằng trong câu chuyện dẫn chứng ở
trên , Đức Phật hiển nhiên đã chấp nhận phát biểu của người học việc , rằng trước
hết chúng ta phải cẩn thận quan sát các bước đi của chính mình nếu người ấy muốn
bảo vệ người khác trước những họa hại . Kẻ đã tự mình lún trong bùn thì chẳng
thể nào giúp người khác thoát khỏi chỗ lầy . Trong ý nghĩ ấy , việc tự phòng hộ
hình thành một nền tảng không thể thiếu cho việc phòng hộ và giúp đở kẻ khác .
Tự phòng hộ không phải là sự phòng hộ ích kỷ . Nó chính là sự tự kiểm soát , tự
phát triển về đạo đức và tâm linh .
Có vài sự thật lớn lao , sâu sắc và đầy đủ đến mức có vẽ như những sự thật ấy
có tầm quan trọng mở rộng mãi , vẫn phát triển cùng với tầm hiểu biết và mức độ
thực tập của từng cá nhân . Những sự thật ấy được áp dụng trên những mức độ hiểu
biết khác nhau và có giá trị giữa những bối cảnh khác nhau trong đời sống của
chúng ta . Sau khi đạt tới mức độ thứ nhất hoặc thứ hai , hành già sẽ ngạc
nhiên thấy những viễn tượng mới cứ lần lần tự mở rộng ra cho sự hiểu biết của
chúng ta . Được soi sáng bởi cùng sự thật ấy , điều đó cũng áp dụng cho chân lý
kép của bản kinh văn đang được chúng ta xem xét về một vài chi tiết .
“ Đang khi tự phòng hộ , hành giả phòng hộ người khác ”-
Chân lý trong phát biểu này bắt đầu ở một mức độ thực tiễn và hết sức đơn giản
. Mức độ cụ thể đầu tiên của sự thật này có tính cách hiển nhiên đến mức chúng
ta chỉ cần nói thêm vài lời . Rõ ràng việc bảo vệ cho sức khỏe của chính mình sẽ
góp phần vào việc bảo vệ sức khỏe cho người khác trong môi trường sống của ta ,
đặc biệt là khi có bệnh truyền nhiễm . Thận trọng trong mọi hành vi cử chỉ của
chúng ta sẽ bảo vệ cho người khác tránh được những họa hại mà sự bất cẩn hay
phóng túng của ta có thể mang lại . Lái xe cẩn thận , không uống rượu , biết tự
kiềm chế trong những hoàn cảnh có thể gây nên bạo lực …bằng cách đó và nhiều
trường hợp khác chúng ta sẽ bảo vệ cho người khác khi bảo vệ chính mình .
Mức độ đạo đức
Nay chúng ta tiến đến mức độ đạo đức của sự thất ấy . Sự
tự phòng hộ về mặt đạo đức sẽ che chở được cho người khác cả về mặt cá nhân lẫn
phương diện xã hội , trước những đam mê vô độ và những thôi thúc vị kỷ của ta .
Nếu chúng ta cho phép tam độc – tham , sân , và si – lập căn cứ vựng chắc trong
tâm mình , khi ấy hoa trái của chúng ta sẽ đâm chồi nẩy lộc giống như dây leo
hoang dại , bóp nghẹt mọi sự tăng trưởng lành mạnh và cao quý ở chung quanh .
Nhưng nếu ta biết tự phòng hộ và chống lại ba nguồn ác ấy , những người chung
quanh ta cũng sẽ được an toàn . Họ sẽ an toàn thóat khỏi sự liều lĩnh vì lòng
tham đắm tài sản và quyền lực , tính trăng hoa , sự ganh ghét và lòng ghen
tuông của ta ; an toàn trước những hậu quả tàn phá của lòng căm ghét và tính
thù hằn của ta vốn có thể gây nên phá hoại hoặc chết chóc ; an toàn trước sự bột
phát lòng tức giận của ta cũng như trước cái không khí đối kháng và mâu thuẩn
đang hình thành có thể làm cho cuộc sống trở nên không thể chịu đựng nổi đối với
họ .
Những tác động tai hại của lòng tham và sự hận thù của ta
trên người khác không chỉ bị giới hạn ở thời điểm họ trở thành đối tượng thụ động
hay nạn nhân của lòng căm ghét của ta , hoặc khi tài sản họ trở thành đối tượng
cho lòng tham của ta . Cả lòng tham và sự hận thù có một năng lực lây nhiễm sẵn
sàng nhân rộng cái tác động tai hại của chúng . Nếu chính ta không nghĩ gì khác
hơn khao khát và chiếm đoạt , đạt được và sở hữu , chiếm giữ và bấu víu …chúng
ta có thể khơi gọi hay củng cố những bản năng ấy nơi người khác phẩm hạnh xấu
xa của ta có thể trớ thành tiêu chuẩn cho thái độ và hành vi của người chung
quanh ta , cho con ta , bạn bè ta , đồng nghiệp ta …
Phẩm hạnh của chính ta có
thể xui khiến người khác tham gi vào sự thỏa mãn chung của những khát vọng cướp
bóc ; hoặc chúng ta có thể khơi gợi những tình cảm oán giận và tranh đoạt . Nếu
ta có đầy nhục dục , ta cũng có thể thắp sáng lửa dâm dục nơi người khác . Lòng
căm hận của ta có thể thúc đẩy người khác căm hận và trả thù . Ta cũng có thể
liên kết với kẻ khác hoặc xúi giục họ tham gia vào những hành động chung của sự
căm hận và thù hằn . Rõ ràng lòng tham và sự căm hận giống như bệnh truyền nhiễm
. Nếu ta tự phòng hộ mình chống lại những căn bệnh truyền nhiễm ấy , ở một mức
độ nào đó , ít nhất ta cũng phòng hộ cho người khác .
Sự phòng hộ nhờ vào Tuệ giác
Về căn nguyên thứ ba của ác hạnh , si hay vô minh , ta
biết rất rõ vô số họa hại có thể gây ra cho kẻ khác chỉ vì sự ngu muội , sự thiếu
suy nghĩ , thiên kiến , ảo tưởng ..của chỉ một người . Thiếu kiến thức và Tuệ
giác , những cố gắng tự bảo vệ hay bảo vệ người khác thường thất bại . Người ta
chỉ thấy được nguy hiểm khi đã quá trễ , không dự liệu cho tương lai , không biết
được những phương tiện có hiệu quả cho việc phòng hộ và giúp đỡ . Cho nên việc
tự phòng hộ cho kiến thức và tuệ giác là điều rất quan trọng . Có được kiến thức
và tuệ giác , ta bảo vệ được người khác tránh được những hậu quả tai hại do ngu
dốt , thiên kiến , cuồng tín và ảo tưởng . Lịch sử cho thấy những ảo tưởng của
đám đông mang tính tàn phá lớn lao thường được nhen nhúm bởi chỉ một người hay
một nhóm người ít ỏi . Tự bảo vệ nhờ kiến thức và tuệ giác sẽ bảo vệ những người
khác khỏi những tác động xấu xa cùng cực của những ảnh hưởng như thế .
Ở đây , ta chỉ nêu một cách ngắn gọn rằng , đời sống cá
nhân của ta có thể có những ảnh hưởng lớn lao đến đời sống của những người khác
như thế nào . Nếu ta bỏ mặc không giải quyết những cội nguồn tội ác xã hội tiềm
tàng hay hiện hành trong chính bản tâm mình , hoạt động xã hội bên ngoài của ta
sẽ chỉ là phù phiếm và bất toàn . Thế nên , nếu ta bị thúc đẩy bởi tinh thần
trách nhiệm xã hội , ta không được phép lơ là nhiệm vụ nặng nề của việc tự phát
triển về phương diện đạo đức và tâm linh . Bận tâm với trách nhiệm xã hội không
thể là lý do để tránh né nghĩa vụ đầu tiên của con người , là hãy dọn dẹp ngôi
nhà tâm thức của chính mình .
Mặt khác , người thiết tha dâng hiến đời mình cho việc tự
hoàn thiện về đạo đức , tự phát triển về tâm linh sẽ có một ảnh hưởng năng động
và mạnh mẽ cho điều tốt trong cuộc đời , ngay cả khi người ấy không tham gia
vào bất kỳ hoạt động nào có tính cách phục
vụ xã hội . Chỉ riêng cái gương im lặng của người ấy thôi cũng sẽ mang lại sự
giúp đở và khuyến khích cho nhiều người , bằng cách chỉ ra rằng những lý tưởng
của một cuộc sống vô ngã và bất hại có thể thực hiện được một cách thực tế chứ
không chỉ là những chủ đề của những lời thuyết giáo suông .
Nguồn : Satipatthana Samyutta - Protection through Satipatthana ,
Nyanaponika Thera , trích rừ eng . buddhapia.com Đọc nguyên bản Tiếng Anh
Nyanaponika Thera ( 1901- 1994 ) được truyền giới theo
Phật giáo Nguyên thủy bởi Đại Sư Nyanatiloka Thera vào năm 1936 tại Tích Lan .
Ngài nguyên là người Đức gốc Do Thái , thể danh là Siegmund Feniger . Ngài là
người đồng sáng lập Buddhist Publication
Society là một tác giả của nhiều tác phẩm Phật học thời danh và là thầy
của nhiều nhà lãnh đạo Phật giáo phương Tây nổi tiếng .
NYANAPOKIA THERA |
Protection through Satipatthana
( LÂM THANH NHIÊN
trích dịch )