Nhưng bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ bên ngoài, nghĩa là do
các căn( các giác quan) tiếp xúc với các trần(đối tượng của giác quan), mà tham
,sân, si, và các ác bất thiện pháp dấy khởi trong tâm, làm cho tâm chở nên ô uế,
mê muội, u ám, không thanh tịnh, không tỉnh táo, không sáng suốt. Do vậy mà hành giả tu hành theo Phật pháp cần
phải tập trung nhận ra các cấu uế hiện diện ở nội tâm để nỗ lực tinh tấn đoạn
trừ, khiến cho tâm trong sáng trở lại. Khi tâm bị ô nhiễm thì lời nói việc làm
đều sấu ác đem đến khổ đau. Trái lại, khi tâm ý trong sáng thanh tịnh thì nói
điều gì cũng trong sáng lợi lạc và làm việc gì cũng chính đáng lợi lạc.
Vì có quan niệm “mê ngộ tại tâm”, “nhất thiết duy tâm tạo”,
hay tâm làm chủ và quyết định mọi hành vi thiện ác, nên đạo Phật rất chú trọng
phương pháp xem xét và uốn nắn nội tâm, quan tâm sâu sắc đến việc khám phá và
phát triển các tiềm năng tự nội. Theo đạo Phật, con người là một chỉnh thể sống
động, có đầy đủ tiềm năng đáp ứng mục tiêu tự hoàn thiện hay có khả năng phát
hiện và điều chỉnh các vấn đề của tự thân theo chiều hướng tốt đẹp. Phương thức
căn bản để thực hiện điều đó là” hướng nội”, nhận diện chính mình “hay” rõ biết như thật về tự thân” (ajjhattam
yathàbhùtam pajànàti) hoặc nói theo Socrates là” knowthyselt”.
Hướng nội hay nhận diện chính mình tức là quay về xem
xét và nhận ra tâm ý tịnh hay bất tịnh của chính mình để từ đó mà nỗ lực tu tập,
uốn nắn và cải thiện bản thân. Đây là hướng đi căn bản của đạo Phật nhằm hoàn
thiện nhân tính và thực nghiệm an lạc tự nội. Hành giả tu tập theo Phật pháp cần
phải thường xuyên quay về xem xét để nhận ra tâm ý của mình có trong sáng hay
không, có bị tham,sân,si, cũng như các ác bất thiện pháp đeo bám và chi phối
hay không. Nếu nội tâm trong sang, hãy cố giữ cho cái tâm ấy luôn luôn trong
sáng thanh tịnh. Nếu nội tâm bị cấu uế, hãy lỗ lực tinh tấn tẩy trừ các cấu uế.
Đây là cách thức xem xét và làm trong sạch nội tâm, khiến cho ba nghiệp thân
-khẩu – ý hay mọi hoạt động của con người trở nên trong sáng, chân chính, lợi lạc.
Kinh Phật nêu rõ các cấu uế của tâm và ngợi phương pháp đoạn trừ như vậy.
Này các tỷ- kheo, thế nào là những cấu uế của tâm? Tham
dục, tà tham là cấu uế của tâm, sân là cấu uế của tâm, phẫn lộ là cấu uế của
tâm, hận là cấu uế của tâm, hư ngụy, lão hại, tật đố, xan tham, man trá, khi cuống,
ngoan cố, cấp tháo, quá mạn, kiêu, phóng dật là cấu uế của tâm.
Này các Tỷ- kheo nào nghĩ rằng: “Tham dục, tà tham là cấu
uế của tâm” và sau khi biết vậy, vị ấy đoạn trừ sân, cấu uế của tâm; phẫn nộ…hận..hư
ngụy…não hại, tật đố, xan tham, man trá, khi cuống….ngoan cố…cấp tháo..mạn…quá
mạn..kiêu; nghĩ rằng:” Phóng dật là cấu uế của tâm” và sau khi biết vậy, vị ấy
đoạn trừ phóng dật, cấu uế của tâm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào Tỷ-kheo biết được “Tham dục, tà
tham, cấu uế của tâm được diệt trừ,…sân…phẫn nộ…hận…hư ngụy…não hại…tật đố…xan
tham…man trá…khi cuống…ngoan cố…cấp tháo…mạn…quá mạn…Kiêu; khi nào Tỷ- kheo biết
được: “ Phóng dật , cấu uế của tâm được diệt trừ, Tỷ- kheo ấy thành tựu lòng
tin tuyệt đối đối với Phật, đối với Pháp, đối với Tăng. Đến giai đoạn này, đối
với vị ấy có sự từ bỏ, có sự diệt trừ, có sự giải thoát, có sự đoạn trừ, có sự
xả ly, chứng được nghĩa tín thọ, pháp tín thọ, chứng được hân hoan liên hệ đến
pháp, từ hân hoan, hỷ sanh, từ hỷ thân được khinh an, thân khinh an, cảm giác
được lạc thọ ; với lạc thọ, tâm được Thiền định”.
Nhìn chung, phương pháp làm trong sạch nội tâm cũng đồng
thời làm trong sạch thân- khẩu- ý hay mọi ý nghĩ, lời nói và việc làm của bản
thân được nói đến trong đạo Phật chính là con đường xem xét và điều phục tự nội.
Đây là đường hướng giáo dục rất đặc trưng của đạo Phật, có khả năng giúp con
người hoàn thiện đạo đức, hoàn thiện tâm linh, hoàn thiện trí tuệ, hướng con
người đạt đến chân- thiện- mỹ hay giải thoát giác ngộ. Điều đáng chú ý là, vì tập
khí tham, sân, si hay các cấu uế vốn đã tích tập lâu ngày và sâu dày ở trong mỗi
chúng sinh, cho nên việc nhận diện và
làm trong sạch nội tâm cần phải được chú trọng thực hiện thường xuyên và kiên
trì thì mới đưa đến kết quả tốt đẹp; tựa như người thợ kim hoàn cần phải kiên
trì tinh tấn trong việc nung nấu và đãi lọc quặng vàng thì sau cùng mới có được
thỏi vàng tinh luyện.
Người tu Phật mà không quay về nhận diện chính mình,
không thấy rõ tâm mình là trong sáng hay
cấu bẩn thì không có cơ hội tu tiến và giải thoát. Kinh Anangana thuộc Trung Bộ
nói rằng cái tâm con người cũng giống như cái bát bằng đồng vừa mới làm xong, nếu
người chủ không chú ý dùng đến, không thường xuyên lau chùi mà lại quăng bỏ ở
chỗ bụi bặm thì lâu ngày cái bát sẽ trở nên ô nhiễm, bám đầy bụi bặm. Trái lại,
nếu người chủ biết sử dụng cái bát, thường xuyên chùi rửa thì càng ngày cái bát
càng trở nên trong sáng, sạch sẽ. Bản kinh nêu hai trường hợp sau đây, lưu ý với
chúng ta về kết quả không tốt đẹp của hạng người không nhận biết về bản thân
mình và kết quả lợi lạc của hạng người thường xuyên xem xét, phản tỉnh và biết
rõ chính mình:
“Ở đây, này Hiền giả, hạng người có cấu uế nhưng không
như thật tuệ tri: “ Nội thân ta có cấu uế
.” Với người này có thể chờ đợi như sau: “Người này sẽ không khởi nên ước muốn,
sẽ không cố gắng, sẽ không tinh tấn để diệt trừ cấu uế ấy. Người này sẽ từ trần,
trong khi còn có tham, còn có sân, còn có si, trong khi còn cấu uế, trong khi
tâm còn ô nhiễm.” Này Hiền giả, giống như một cái bát bằng đồng, mang từ chợ
hay mang từ nhà thợ rèn về, phủ đầy bụi bặm, và người chủ cái bát ấy không dùng
đến, không lau chùi và quăng cái bát ấy , sau một thời gian càng ô nhiễm hơn,
càng đầy bụi bặm hơn.”
Ở đây, này Hiền giả, hạng người có cấu uế, và như thật
tuệ tri: “Nội thân ta có cấu uế:, với người này, có thể chờ đợi như sau:” Người
này sẽ trở nên ước muốn, sẽ cố gắng, sẽ tinh tấn để diệt trừ cấu uế ấy. Người
này sẽ từ trần, trong khi không còn tham, không còn sân, không còn si, trong
khi không còn cấu uế, trong khi tâm không còn ô nhiễm”. Này Hiền giả, giống như
cái bát bằng đổng, mang từ chợ hay mang từ nhà thợ rèn về, phủ đầy bụi bặm, và
người chủ cái bát ấy dùng đến, lau chùi
và không quăng cái bát ấy vào chỗ đầy bụi bặm. Này Hiền giả, như vậy cái bát ấy
, sau một thời gian được thanh tịnh hơn,
được sạch sẽ hơn.”
Chú thích:
Kinh Tâm đặt sai hướng, Tăng Chi Bộ.
Kinh pháp cú, kệ số 1-2.
Kinh ví dụ tấm vải, Trung Bộ.
Tham dục (abhijjhà) tức là tham đắm những gì mình có.
Tà tham ( visamlobha) là ham muốn thèm khát những gì thuộc
người khác.
Hư ngụy (makkho) tâm lý gian dối làm cho mọi thứ mất giá
trị.
Khi cuống (sàtheyya) tức tâm lý cao ngạo hay xem thường
người khác.
Cấp tháo (sàrambha) thói quen hành động hấp tấp vội
vàng, không suy xét cân nhắc về hậu quả.
Kinh không uế nhiễm, Trung Bộ.
GIÁC BẢO HÒA