Giải thích theo Phật Pháp, những sự việc được
khởi đầu tốt đẹp bằng giữ gìn tĩnh lặng là “những thứ (phẩm chất) làm
giảm bớt sự tích lũy nghiệp”. Để khảo sát, chúng ta sẽ dựa theo
cách phân chia lộ trình tu tập truyền thống là giới (hành vi, đạo đức),
định (sự ổn định, tĩnh lặng nội tâm) và tuệ (tuệ giác). Cả ba chi phần này đều
được trợ giúp một cách quyết định bởi thái độ giữ yên (tịnh
chỉ) được phát triển nhờ ghi nhận thuần túy.
1. Giới: làm
thế nào để cải thiện hành vi, giới hạnh và khả năng ra quyết định đúng?
Nếu chúng ta thực sự chân thành mong muốn tăng thượng giới, thì khôn ngoan nhất
là chọn con đường nào ít đối kháng nhất. Nếu chúng ta quay ngoắt chống đối lại
những khiếm khuyết ăn sâu từ thói quen cũ hay những động lực rất mạnh
trong tâm một cách quá nhanh chóng, chúng ta có thể sẽ phải chịu thất
bại và nản lòng. Trước hết chúng ta hãy chú ý đến những lỗi lầm, thiếu sót
về lời nói, hành động và những đánh giá, phán xét sai lầm gây ra bởi sự
vội vàng, vô tâm, thiếu suy nghĩ. Những lỗi loại này có rất nhiều. Trong cuộc
sống có rất nhiều trường hợp chỉ cần một khoảnh khắc suy xét ngắn ngủi cũng đủ
để ngăn chặn một bước đi sai lầm, và từ đó tránh được cả một chuỗi dài đau khổ
và tội lỗi, khởi đầu chỉ từ một giây phút thiếu suy nghĩ. Nhưng làm
thế nào để kiềm chế được những phản ứng vội vàng, hấp tấp và thay thế bằng
những khoảnh khắc chánh niệm và suy xét? Làm được điều đó lại còn
phụ thuộc vào khả năng chặn đứng và tạm dừng, hãm
phanh lại đúng lúc – và điều này chúng ta có thể học được bằng cách thực hành
ghi nhận thuần túy.
Trong pháp hành đó, chúng ta tự luyện tập mình “nhìn và
chờ đợi”, chặn dừng lại các phản ứng của mình hoặc làm chậm chúng lại.
Trước hết chúng ta phải học theo cách dễ nhất, ở những hoàn cảnh do
mình lựa chọn, gói gọn trong một số kinh nghiệm hạn chế trong thiền.
Khi đối diện nhiều lần với những tác động giác quan ngẫu nhiên, các cảm xúc hay
suy nghĩ lan man làm gián đoạn định tâm; khi kiềm chế nhiều lần mong muốn phản
ứng lại chúng bằng cách này hay cách khác; nhiều lần trụ vững tâm khi đối diện
với chúng – chúng ta sẽ có đủ khả năng để duy trì sự tĩnh lặng nội tâm
trong cuộc sống hàng ngày. Bởi vì cuộc sống ấy vốn rộng mở hơn và không được
che chắn. Tâm quan sát sẽ luôn có mặt, giúp chúng ta tạm dừng và chặn
đứng, ngay cả khi bị bất ngờ, khi bị lôi cuốn, cám dỗ hay cáu giận đột
ngột.
Những điều chúng ta nói ở trên đề cập đến
những lỗi hành vi xuất phát từ sự vội vàng, thiếu suy nghĩ, song ít nhiều
dễ kiểm soát bằng chánh niệm. Sự khéo léo khi xử lý chúng cũng
có tác động đến những hành vi phạm giới cứng đầu khác, vốn bắt nguồn từ những
động lực cảm xúc mạnh hoặc những thói quen xấu thâm căn cố đế trong ta. Sự tĩnh
lặng nội tâm đạt được trong quá trình tịnh chỉ để ghi nhận thuần túy cũng
kiềm chế được sự bốc đồng của các cảm xúc. Thói quen chặn đứng và tạm dừng đóng
vai trò như một cái phanh hãm đối với những thói quen dễ duôi, đắm chìm
trong các hành vi bất thiện đã ăn sâu bén rễ trong tâm.
Nhờ khả năng tịnh chỉ để ghi nhận thuần
túy, hay dừng lại để suy xét một cách trí tuệ, thường là sự lôi cuốn, cám dỗ
đầu tiên của tham dục, làn sóng cáu giận đầu tiên, màn sương mê mờ đầu tiên của
tâm si sẽ biến mất ngay mà không gây ra rắc rối nghiêm trọng nào. Dòng những
tiến trình tâm bất thiện bị chặn đứng lại ở thời điểm nào là phụ thuộc vào
mức độ chánh niệm của chúng ta. Nếu chánh niệm sắc bén, nó sẽ chặn được một
loạt những suy nghĩ hay hành động bất thiện từ rất sớm, trước khi chúng lôi
mình đi quá xa. Phiền não sẽ không lớn mạnh vượt quá mức độ ban đầu,
do đó sẽ bớt cần đến nhiều nỗ lực để kiểm soát chúng, nghiệp tạo ra
sẽ ít hơn, hoặc là không có.
Lấy ví dụ một hình ảnh thích ý nào đó
làm sanh khởi sự thích thú trong tâm. Đầu tiên thì sự thích thú đó
không mạnh mẽ và không dai dẳng lắm. Ở thời điểm này, tâm đã sẵn sàng
giữ yên (tịnh chỉ) để quan sát hoặc suy xét một cách khách quan, hình
ảnh đó sẽ dễ dàng bị tước bỏ phần tham dục xâm nhập vào từ khi nó mới
rất nhẹ. Đối tượng đó sẽ được ghi nhận là “chỉ là một cái gì đó gây cảm giác
thích”, hoặc sự thu hút chúng ta cảm nhận ấy sẽ được thăng hoa lên thành
một niềm vui tĩnh lặng. Song nếu đánh mất cơ hội đầu tiên ấy, sự thích thú sẽ
lớn mạnh lên thành dính mắc và khao khát sở hữu. Nếu lúc này có sự dừng chặn,
suy nghĩ khát khao ấy sẽ dần dần mất sức mạnh; nó sẽ không dễ biến thành tham
muốn dai dẳng, và sẽ không có cố gắng thực sự để chiếm hữu đối tượng ham muốn
nữa.
Song nếu tham dục không được kiểm soát, suy nghĩ ham muốn sẽ
tự thể hiện ra bằng lời nói đòi hỏi đối tượng, thậm chí với những lời
lẽ mạnh bạo, bốc đồng. Nghĩa là, khẩu nghiệp bất thiện tiếp nối theo sau ý
nghiệp bất thiện. Khi bị từ chối, dòng phiền não dục ban đầu sẽ phân
nhánh ra thành các phiền não phụ trội khác: có thể là buồn phiền, hoặc giận
dữ. Nhưng ngay cả khi đã muộn như vậy, chúng ta vẫn có thể dừng lại để lặng yên
suy xét hay ghi nhận thuần túy, chấp nhận sự từ chối và từ bỏ ham muốn, thì có
thể tránh được những rắc rối tiếp theo. Tuy nhiên, nếu theo sau những lời
từ chối là thân nghiệp bất thiện, và nếu, bị thúc đẩy bởi tham dục, chúng ta cố
gắng chiếm đoạt đối tượng ưa thích bằng vũ lực hay bằng trộm cắp, thì khi đó
nghiệp đã hoàn thành và quả báo của nó sẽ phải trả đủ. Song nếu,
ngay cả khi đã làm xong một việc bất thiện, chúng ta dừng lại để suy
xét, thì việc đó cũng không vô ích. Bởi vì chánh niệm sanh khởi dưới hình thức
quán xét lại, ăn năn hối lỗi, sẽ ngăn ngừa sự xơ cứng hóa nhân cách
và có thể ngăn chặn sự lặp lại của hành động đó trong tương lai. Đức Phật đã
dạy Rāhula[1] rằng:
“Bất
cứ hành động thân, khẩu, ý nào con dự định làm, con hãy suy xét
kỹ hành động ấy… Nếu, sau khi suy xét, con thấy rằng: “Hành động tôi dự
định làm này là có hại cho chính mình, hoặc có hại cho người, hoặc có hại cho
cả hai; thì đó là hành động bất thiện, mang lại đau khổ, có kết quả là đau
khổ” – thời con không nên làm hành động ấy.
Lại
nữa, trong khi làm bất cứ hành động thân, khẩu, ý nào, con hãy
suy xét kỹ hành động ấy… Nếu, sau khi suy xét, con thấy rằng: “Hành động
tôi đang làm này là có hại cho chính mình, hoặc có hại cho người, hoặc có hại
cho cả hai; thì đó là hành động bất thiện, mang lại đau khổ, có kết quả là
đau khổ” – thời con hãy từ bỏ hành động ấy.
Lại
nữa, sau khi làm bất cứ hành động thân, khẩu, ý nào, con hãy
suy xét kỹ hành động ấy… Nếu, sau khi suy xét, con thấy rằng: “Hành động
tôi đã làm là có hại cho chính mình, hoặc có hại cho người, hoặc có hại cho
cả hai; thì đó là hành động bất thiện, mang lại đau khổ, có kết quả là đau
khổ” – thời con hãy tự chế không nên làm hành động ấy trong tương lai”. (MN61)
2.
Định. Bây giờ chúng ta hãy xem xét cách ghi nhận thuần
túy giúp thiền sinh đạt được và củng cố định tâm (samatha) với hai
nghĩa: sự bình an tổng thể của nội tâm và sức tập trung trong thiền.
Bằng cách phát triển thói quen tạm dừng để
ghi nhận thuần túy, thiền sinh sẽ ngày càng dễ dàng rút lui vào sự tĩnh lặng
bên trong tâm mình, khi thân không thể tránh khỏi những tiếng động ồn ào
không ngớt của thế giới bên ngoài. Chúng ta cũng dễ dàng bỏ qua
những phản ứng vô ích đối với những lời nói và hành động ngu ngốc của người
khác. Mỗi khi hứng chịu những đòn đánh nghiệt ngã và không ngớt của
số phận, một cái tâm đã được rèn luyện bởi pháp hành ghi nhận thuần túy sẽ
tìm chỗ trú ngụ ở trạng thái thụ động hay tình trạng
chỉ-quan-sát mà không–hành-động, từ vị trí đó nó có thể kiên nhẫn chờ đợi cho
cơn bão đi qua. Có những hoàn cảnh trong cuộc đời mà tốt nhất là hãy để cho mọi
việc tự đi đến chỗ kết thúc tự nhiên của nó. Người có thể giữ yên, tịnh chỉ và
chờ đợi thường sẽ thành công, trong khi những hành động bận rộn và hung hăng
thường là thất bại. Không những chỉ trong những trường hợp nguy cấp, mà ngay cả
trong cuộc sống thường ngày, kinh nghiệm từ sự giữ yên và quan sát khiến chúng
ta tin rằng không cần phải đáp ứng lại ngay mọi tác động mà chúng ta nhận được,
không cần phải coi tất cả mọi người, mọi việc chúng ta gặp phải như là những
đối tượng cho hành động can thiệp của mình.
Bằng cách tự hạn chế không
để mình bận rộn một cách không cần thiết, sự va chạm với bên ngoài
cũng giảm bớt và sự căng thẳng bên trong do chúng mang lại cũng được nới lỏng
dần. Sự bình an và hài hòa sẽ bao trùm cuộc sống mỗi ngày, thu hẹp dần
khoảng cách giữa cuộc sống đời thường và sự tĩnh lặng trong thiền tập. Khi đó,
những âm hưởng dội vào nội tâm của cuộc sống đời thường xáo động, dù dưới dạng
thô rõ hay vi tế, vốn tràn ngập trong những giờ thiền tập và mang lại
sự bất an cho thân và tâm sẽ ngày càng giảm bớt. Kết quả là loại
chướng ngại trạo cử, xáo động, một loại chướng ngại chính đối với thiền, sẽ
xuất hiện ngày một ít hơn và khi nó sanh khởi, cũng dễ dàng vượt qua hơn.
Bằng cách tu tập thái độ ghi nhận thuần túy
thường xuyên mỗi khi có cơ hội, lực ly tâm - thủ phạm của các xáo động-bất
an, sẽ đuối sức dần; xu hướng hướng tâm – quay tâm vào bên trong và tạo cơ sở
cho định tâm, sẽ được tiếp thêm sức mạnh. Tham muốn (ái dục) sẽ không còn chi
phối, bắt chúng ta phải đuổi theo những đối tượng đa dạng đang liên tục thay
đổi nữa.
Thực hành thường xuyên việc duy trì chú ý
liên tục trên một loạt đối tượng quan sát sẽ chuẩn bị tâm cho việc tập trung
liên tục trên một đề mục, hoặc một số đề mục hạn chế, trong khi hành thiền miên
mật. Sự vững vàng và ổn định của nội tâm, một nhân tố quan trọng của định, cũng
được tu tập.
Do đó, thực hành giữ yên, tạm dừng và
chặn đứng để ghi nhận thuần túy sẽ tăng cường nhiều thành tố chính của
thiền định: sự tĩnh lặng, bình an, sức tập trung, sự vững vàng của
nội tâm và giảm bớt sự đa dạng của đề mục. Nó nâng tầm bình quân của
mức tâm bình thường và đưa lên gần đến mức tâm thiền. Đây là điểm quan trọng,
bởi vì sự cách biệt quá lớn giữa hai tầm mức tâm ấy sẽ phá hoại các
cố gắng định tâm và sự liên tục của thiền tập.
Theo thứ tự sắp xếp của bảy giác
chi (bảy chi phần dẫn đến giác ngộ), an tịnh giác chi (passaddhi-sambojjhanga)
đi trước định giác chi (samādhi-sambojjhanga). Đức Phật cũng nói
rằng: “Nếu bên trong được an tịnh, tâm sẽ có định”. Giờ đây,
theo tinh thần của những điều diễn giải ở trên, chúng ta có thể hiểu được lời
dạy này của ngài một cách rõ ràng hơn.
3. Tuệ. Đức
Phật nói rằng: “Người có định sẽ thấy mọi thứ như chúng đang là” (như
đúng bản chất nó như vậy). Do đó, tất cả mọi cách thức mà ghi nhận thuần túy
củng cố định tâm cũng tạo điều kiện hỗ trợ cho sự phát triển tuệ giác. Bên cạnh
đó, sự tịnh chỉ của ghi nhận thuần túy cũng có thể mang lại
những hỗ trợ cụ thể và trực tiếp hơn cho tuệ giác.
Nói chung, chúng ta thường quan tâm đến
việc nắm bắt và sử dụng mọi thứ hơn là hiểu biết đúng về bản chất thực
sự của chúng. Chính vì vậy, chúng ta thường nắm bắt vội vàng một số ít tín
hiệu đầu tiên mà tưởng (chức năng nhận biết và xác định sự vật, sự việc của
tâm) chuyển đến cho chúng ta. Sau đó, thông qua những thói quen ăn sâu trong
tâm, những tín hiệu này kích hoạt một phản ứng quy chuẩn bằng các đánh giá,
phán xét như: tốt-xấu, thích thú-khó chịu, có lợi-có hại, đúng-sai. Những đánh
giá này, mà nhờ nó chúng ta xác định đối tượng trong mối quan hệ với bản
thân mình, dẫn đến những phản ứng tương ứng bằng lời nói và hành động. Rất hiếm
khi chúng ta chú ý tới những đối tượng thông thường hoặc quen thuộc, lâu hơn
thời gian cần thiết để thu nhận một số ít tín hiệu ban đầu. Chúng ta
hầu như chỉ nhận biết mọi việc một cách rời rạc, và do vậy thường nhận
biết sai về chúng. Hơn nữa, chỉ giai đoạn đầu của “thời gian sống” của đối
tượng, hoặc hơn một tý, là đến được sự tập trung chú ý của chúng ta. Thậm chí
chúng ta còn chẳng ý thức được rằng đối tượng đó là một tiến trình kéo dài
trong một khoảng thời gian – có sự khởi đầu và kết thúc; và có nhiều khía
cạnh, nhiều mối quan hệ bên ngoài những gì chúng ta nhận thức được trong tình
huống hạn chế ấy. Nói ngắn gọn, nghĩa là tự thân nó là một loại thực
thể phù du, chóng tàn.
Thế giới được nhận thức một cách hời hợt
như vậy chỉ là một mớ những kinh nghiệm kỳ dị, được biểu thị bằng một vài ký
hiệu hay biểu tượng do chủ quan lựa chọn. Những biểu tượng được lựa chọn đó
được quyết định chủ yếu bởi sự ưa thích cá nhân, thậm chí đôi khi còn không
được sử dụng đúng nữa. Cái thế giới mờ ảo như cái bóng ấy không chỉ bao gồm môi
trường bên ngoài và những người khác, mà còn cả phần lớn các tiến trình
thân và tâm của chính chúng ta. Những tiến trình này cũng là đối tượng để khái
niệm hoá một cách hời hợt y như vậy.
Đức Phật đã chỉ ra bốn loại điên đảo
tưởng (nhận thức sai lầm) do nhận thức bị bóp méo và sự chú ý không chân chánh
(phi như lý tác ý): coi bất tịnh là tịnh, vô thường là thường, khổ là lạc, vô
ngã là ngã. Khi dấu ấn của hệ quy chiếu cá nhân ấy được đóng đi đóng lại
nhiều lần vào thế giới nhận thức hàng ngày, sự nhận thức sai lầm căn bản “Cái
này là của tôi” (attaniya) sẽ ăn sâu bén rễ trong mọi hành động thân-tâm
của chúng ta. Giống như những rễ cây, tuy nhỏ nhưng lan rộng và bám rất chắc –
đến mức, nếu chỉ có kiến thức lý luận về vô ngã (anattā)
sẽ không thể làm lung lay nổi cái ý niệm “tôi” và “của tôi” ấy.
Những hệ lụy nghiêm trọng này bắt
nguồn từ tình trạng nhận thức cơ bản: chúng ta quá vội vàng phản ứng một
cách hấp tấp và theo thói quen, ngay khi nhận được một số ít thông tin đầu tiên
của nhận thức. Song nếu chúng ta sử dụng được sức mạnh kiềm chế của chánh
niệm và tạm dừng để ghi nhận thuần túy, thì những tiến trình thân-tâm hình
thành nên đối tượng nhận thức ấy sẽ tự thể hiện ra một cách đầy đủ và đúng đắn
hơn. Không còn ngay lập tức bị lôi vào vòng xoáy của tư kiến (những suy
nghĩ, đánh giá chủ quan của chính mình, và được tự do bộc lộ bản thân trước con
mắt quan sát của chánh niệm, chúng sẽ hé mở mọi khía cạnh đa dạng của chúng và
cả một mạng lưới rộng lớn các mối tương quan và quan hệ qua lại lẫn nhau. Tư
kiến, vốn hẹp hòi và thường là sai lạc, sẽ rút lui về phía sau và bị lấn át bởi
tầm nhìn rộng mở hơn vừa có được. Tiến trình được chúng ta quan sát đó thể
hiện sự sanh và diệt không ngừng thông qua sự diễn tiến liên tục và bên trong
các thành phần cấu tạo nên nó. Bằng cách ấy, chân lý vô thường in dấu ấn lên
tâm thiền sinh ngày một rõ nét hơn.
Sự phân biện sanh và diệt đó cũng sẽ
phá vỡ ảo tưởng sai lầm về một thực thể thống nhất (của các tiến trình
thân-tâm) hình thành dưới ảnh hưởng của bản ngã. Tư kiến gạt bỏ sự đa dạng; nó
gộp tất cả mọi thứ lại trong ảo tưởng về cái“tôi” hay của
tôi. Tuy nhiên, ghi nhận thuần túy bóc trần những thực thể này để thấy rằng
chúng chẳng là gì khác ngoài những hiện tượng bị điều kiện hóa[3] và không thuộc
về một ai cả. Nhiều lần đối diện với bản chất phù du, bị phụ thuộc (vào
nhân duyên) và vô ngã của các tiến trình sống bên trong và bên ngoài, chúng ta
sẽ phát hiện ra sự đơn điệu và bản chất bất toại nguyện của chúng:
hay còn gọi là sự thật về khổ. Như vậy, bằng phương pháp đơn giản là
làm chậm, tạm dừng và giữ yên để ghi nhận thuần túy, cả ba đặc tướng - vô
thường, khổ, vô ngã – sẽ tự hiển lộ ra trước tuệ giác vipassanā.