Để kiềm chế sự bốc đồng, cẩu thả
và phóng dật của một cái tâm thiếu tu tập, pháp hành tạm dừng và dừng chặn
cố ý tập làm chậm lại mọi việc. Tuy nhiên, do yêu cầu thúc bách của cuộc
sống hiện đại, việc làm chậm lại các hoạt động trong công việc hàng ngày rất
khó áp dụng trong thực tế. Nhưng bởi vì đây là cách đối trị những hệ lụy
có hại từ tốc độ chóng mặt của cuộc sống hiện đại, nên việc áp dụng
nó trong những lúc rảnh rỗi, nhất là trong những giai đoạn thực hành thiền Tứ
Niệm Xứ miên mật, là điều rất quan trọng. Thực hành như vậy cũng đem lại nhiều
lợi ích trong cuộc sống như sự bình an, tĩnh lặng của tâm, nâng cao hiệu
quả và kỹ năng trong công việc.
Đối với mục đích phát triển thiền tập, tập
làm chậm rất hiệu quả để luyện tập sự không dễ duôi, thu
thúc lục căn[5] và định lực[6]. Nhưng ngoài những điều
đó, nó còn có một ý nghĩa cụ thể hơn đối với thiền tập. Chú giải kinh Tứ Niệm
Xứ nói, việc làm chậm lại các cử động có thể giúp lấy lại được định tâm đã mất
(trên một đề mục). Trong chú giải có chuyện, một vị sư trong lúc quên chánh
niệm đã co tay lại hơi nhanh, không đúng với nguyên tắc thực hành. Khi ý thức
được điều đó, vị ấy đã đưa tay trở lại vị trí cũ và làm lại cử động ấy một cách
chánh niệm. Đề mục chánh niệm của vị ấy là “giữ chánh niệm tỉnh giác trong mọi hành
động”, như đã nêu trong kinh Tứ Niệm Xứ: “Khi co tay, duỗi tay, vị ấy
làm một cách tỉnh giác”.
Làm chậm lại một số động tác trong thời
gian hành thiền miên mật đặc biệt hữu ích để đạt tới các tuệ minh sát (vipassanā-ñāna),
nhất là trực nhận về đặc tướng vô thường và vô ngã. Trong phần lớn các trường
hợp, chính các cử động nhanh đã làm tăng cường ảo tưởng về tính nguyên khối, và
ảo tưởng về một thực thể trong cái thực ra chỉ là một tiến trình phức tạp và
tạm bợ. Do đó, trong khi thực hành miên mật, làm chậm lại các hành động như đi
lại, co, duỗi (tay chân) để phân biệt được nhiều giai đoạn trong mỗi cử động,
sẽ trợ giúp mạnh mẽ cho tuệ giác trực nhận ba đặc tướng của tất cả mọi sự vật,
hiện tượng. Sự quán chiếu của thiền sinh sẽ ngày càng mạnh mẽ nếu
vị ấy có thể quan sát rõ ràng mỗi đoạn nhỏ của cả tiến
trình tự nó sanh lên và diệt mất, không có cái gì chuyển dịch hay “di dời”
sang đoạn tiếp theo.
Dưới ảnh hưởng của việc tạm dừng để ghi
nhận thuần túy, nhịp độ các hành động, lời nói và việc làm bình thường mỗi ngày
cũng trở nên tĩnh lặng và bình an hơn. Làm chậm lại nhịp điệu hối hả của cuộc
sống nghĩa là các suy nghĩ, cảm xúc và nhận thức có thể hoàn thành đủ thời gian
sống tự nhiên của chúng. Chánh niệm được mở rộng đến tận lúc chót: đến những
xung động và âm hưởng cuối cùng. Giai đoạn cuối này rất thường xuyên bị cắt bỏ
do sự vội vã tóm bắt những ấn tượng mới, hoặc vội vàng bắt nối sang giai đoạn
suy nghĩ tiếp theo trước khi nắm bắt và hiểu rõ giai đoạn hiện tại. Đây là một
trong những nguyên nhân chính gây nên tình trạng lộn xộn trong tâm một con
người bình thường, bị chất nặng bởi một số lượng lớn những nhận thức rời rạc,
mơ hồ, những cảm xúc còi cọc và những ý tưởng chưa tiêu hóa. Làm chậm lại là
một phương pháp hiệu quả để phục hồi sự sáng suốt và trọn vẹn của tâm. Một ví
dụ thực tế là quy trình thực hành niệm hơi thở (ānāpānasati):
chánh niệm trọn vẹn toàn bộ hơi thở, từ lúc bắt đầu, đến đoạn giữa và điểm kết
thúc. Đó là ý nghĩa của đoạn kinh: “Biết rõ toàn thân hơi thở, vị ấy thở vào,
thở ra”. Cũng như thế, toàn bộ “hơi thở” hay nhịp điệu cuộc sống của chúng ta
sẽ trở nên sâu sắc và trọn vẹn hơn nếu chúng ta có thói quen duy trì
sự chú ý nhờ thực hành làm chậm lại mọi việc.
Thói quen cắt đứt sớm các tiến trình suy
nghĩ hoặc bỏ qua chúng chi phối phần lớn tâm những con người thành phố hiện
đại. Họ không ngừng đòi hỏi những sự kích thích mới mẻ, ngày càng liên tục
hơn, cũng như họ mong muốn mua những chiếc xe mới có tốc độ cao hơn, chạy nhanh
hơn. Những tác động dồn dập, gấp gáp của các ấn tượng giác quan sẽ làm cùn dần
sự nhạy cảm của họ, và vì vậy họ luôn luôn cần tới sự kích thích mới,
ồn ào hơn, thô tháo hơn và đa dạng hơn nữa. Một tiến trình như vậy, nếu không
được kiểm soát, sẽ chỉ đem lại tai họa mà thôi. Chúng ta đã chứng kiến con người
ngày càng xuống cấp về thị hiếu thẩm mỹ và mất dần khả năng
hưởng thụ niềm vui tự nhiên. Thay thế vào đó là những sự phấn khích cuồng nhiệt
và chóng tàn, chẳng thể đem lại sự mãn nguyện thực sự về cảm xúc hay
thẩm mỹ. “Cuộc sống tinh thần nông cạn” là thủ phạm chính gây nên sự hời hợt,
nông cạn ngày càng gia tăng của những “con người hiện đại”, cũng như sự lan
truyền đáng sợ của căn bệnh rối loạn tâm thần trong xã hội phương Tây. Nó
có thể sẽ khởi đầu cho sự suy đồi về tâm thức của con người, cả
về chất lượng, phạm vi và năng lực. Mối nguy hiểm này đang đe dọa tất cả mọi
người, ở phương Đông cũng như phương Tây, những người thiếu sự bảo vệ cho tâm
mình trước tác động của kỹ thuật hóa, hiện đại hóa. Thiền Tứ Niệm Xứ có thể
đóng góp quan trọng để cải thiện hoàn cảnh này, theo cách chúng ta đã trình bày
ngắn gọn ở trên. Vì vậy, phương pháp thiền này cũng đem lại cả lợi ích đời
thường cho mọi người.
Tuy nhiên, ở đây chúng ta chủ yếu chỉ quan
tâm đến khía cạnh tâm lý của chánh niệm và ý nghĩa của nó đối với sự phát
triển thiền tập. Sự chú ý được duy trì liên tục, nhờ thực hành
làm-chậm-lại, sẽ tác động đến chất lượng tâm chúng ta theo ba cách:
1. Củng cố và tăng cường sức
mạnh cho tâm.
2. Làm hiện rõ các đặc tướng
của đối tượng chú ý (đề mục).
3. Làm bộc lộ các mối quan
hệ nhân duyên của đối tượng.
1. Một đối tượng được chú ý liên tục
sẽ có tác động đặc biệt mạnh và kéo dài lên
tâm chúng ta. Ảnh hưởng của nó không chỉ được cảm nhận qua một loạt những suy
nghĩ kế tiếp sau đó, mà còn có thể lan tỏa xa đến tương lai. Chính hiệu
quả trợ duyên này là thước đo sức mạnh của tâm.
2. Sự chú ý liên tục đem đến một
bức tranh toàn cảnh đầy đủ hơn về đối tượng trên tất cả các góc độ.
Nói chung, ấn tượng đầu tiên chúng ta cảm nhận được từ bất cứ đối tượng giác
quan hay một ý tưởng nào đó đều chỉ là đặc điểm nổi bật nhất của nó; chính điểm
này thu hút sự chú ý của chúng ta tới khi sức tác động của nó đạt đến đỉnh
điểm. Song đối tượng cũng thể hiện những khía cạnh, đặc tính cùng những chức
năng khác, ngoài những điều chúng ta cảm nhận được đầu tiên. Những điều này có
thể không rõ nét hoặc không thú vị đối với chúng ta; nhưng có thể lại quan
trọng hơn. Có rất nhiều trường hợp, ấn tượng đầu tiên của chúng ta hoàn toàn là
sai lầm. Chỉ khi chúng ta tiếp tục duy trì sự chú ý xa hơn cảm nhận ban
đầu đó thì đối tượng mới tự thể hiện ra đầy đủ hơn. Khi làn sóng nhận thức đầu
tiên thoái lui, thì sức mạnh của thành kiến/tư kiến (đánh giá, suy nghĩ chủ
quan) cũng giảm dần; và chỉ khi đó, trong giai đoạn kết thúc, đối tượng mới thể
hiện được nhiều chi tiết mở rộng, một bức tranh hoàn chỉnh hơn về chính nó.
Chính vì vậy, chỉ nhờ sự chú ý liên tục chúng ta mới đạt tới
được sự hiểu biết rõ ràng hơn về các thuộc tính của đối tượng.
3. Trong số các thuộc tính của đối tượng, dù
là của thân hay tâm, có một loại mà chúng ta thường bỏ qua do sự chú ý hời hợt
và vội vàng; nó cần được xem xét riêng biệt ở đây. Đó chính là các mối
quan hệ nhân duyên của đối tượng. Các quan hệ nhân duyên của nó
trải dài đến quá khứ - nguồn gốc, nguyên nhân, các tiền lệ về lý trí
và logic; nó cũng trải rộng ra bên ngoài hoàn cảnh tổng thể - bối cảnh,
môi trường và những lực tác động đang có mặt. Chúng ta sẽ không bao giờ hiểu
được hoàn toàn sự việc nếu chỉ nhìn nó một cách tách biệt, do chủ quan áp
đặt. Chúng ta phải nhìn đối tượng với tầm nhìn rộng hơn, trong tình trạng nó
bị điều kiện và đang tạo điều kiện; và điều này chỉ có thể làm được nhờ sự
chú ý liên tục.