Khi tâm đã được tăng cường sức mạnh, phạm vi của đề mục và cấu trúc quan
hệ nhân duyên đã được làm rõ, sân chơi đã được dọn sẵn để “nhìn mọi
sự việc như chúng đang là”. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động trực tiếp,
tiến trình theo ba cách này còn có tác động gián tiếp không kém phần quan trọng
và mạnh mẽ: nó tăng cường và mài sắc trí nhớ, trực giác và khả năng sắp
xếp-tổ chức trong tiềm thức. Điều này lại nuôi dưỡng và thúc đẩy quá trình
tăng trưởng tuệ giải thoát (tăng thượng tuệ). Cũng giống như ví dụ cái hồ trong
núi mà Đức Phật nói trong kinh: không những được làm đầy bởi nước suối chảy
vào, mà còn được làm đầy bởi những mạch nước ngầm dưới đáy hồ. Tuệ giác được
nuôi dưỡng “ngầm bên dưới” từ trong tiềm thức này có gốc rễ rất sâu. Những
thành quả thiền tập do nó mang lại không dễ dàng mất đi, ngay cả đối với
những con người phàm phu chưa đắc đạo – những người có khả năng còn bị rơi
trở lại.
1. Những sự nhận thức hoặc suy nghĩ là
đối tượng chú ý liên tục sẽ có tác động mạnh mẽ hơn lên tâm và bộc lộ
những đặc tính của chúng một cách rõ nét hơn. Do đó, sau khi chìm xuống vô thức,
chúng sẽ chiếm giữ một vị trí đặc biệt ở đó. Điều này đúng
đối với cả ba cách tăng cường sức mạnh của tâm khi nhận thức một đối tượng.
a. Trong một tiến trình
tâm, nếu sự chú ý trong giai đoạn cuối cũng mạnh như ở giai đoạn đầu, thì
khi tiến trình kết thúc và tâm chìm lại vào vô thức, nó sẽ dễ dàng
thuận theo sự kiểm soát của hữu thức hơn.
b. Nếu một ấn tượng giác quan
hay một ý tưởng được đánh dấu bởi nhiều đặc tính rõ nét, thì sau khi khuất bóng
khỏi quá trình nhận thức hiện tại, nó sẽ không dễ dàng mất đi
trong kho vô thức mờ tối hoặc bị lôi kéo theo các định kiến cảm xúc để tạo nên
những liên tưởng sai lầm trong vô thức.
c. Tương tự, sự nhận thức
đúng đắn các quan hệ nhân duyên của đối tượng sẽ bảo vệ không để nó tan lẫn với
những chất liệu mơ hồ trong vô thức. Các suy nghĩ và nhận thức với cường độ
mạnh và rõ nét, sau khi chìm vào vô thức, vẫn rõ nét hơn và dễ tiếp cận hơn
những ấn tượng giác quan mờ nhạt và “còi cọc”. Nó sẽ dễ dàng được
chuyển đổi thành hữu thức đầy đủ và sẽ có ảnh hưởng lớn hơn đối với tâm,
từ sâu đằng sau hậu trường. Nếu, thông qua sự tiến bộ về chất lượng và
phạm vi của chánh niệm, số lượng những ấn tượng giác quan đủ độ chín
như vậy được tăng lên, kết quả sẽ là sự thay đổi vi tế ở trong chính cấu trúc
của vô thức.
2. Xét theo những gì chúng ta đã trình
bày ở trên, rõ ràng là những ấn tượng giác quan mà chúng ta gọi là “đủ độ
chín” hay “dễ tiếp cận và chuyển đổi” ấy sẽ được nhớ lại một cách dễ dàng và
chính xác hơn. Dễ dàng bởi vì các ấn tượng giác quan ấy có cường độ mạnh, chính
xác bởi vì những đặc tính bộc lộ rõ nét bảo vệ chúng khỏi
bị những suy tưởng và những hình ảnh liên tưởng bóp méo. Ghi nhớ chúng
trong hoàn cảnh và các mối quan hệ nhân duyên cụ thể sẽ phát huy tác dụng theo
cả hai cách: làm tăng cường khả năng nhớ lại một cách chính xác hơn và dễ dàng
hơn. Do đó, chức năng chú ý, ghi nhận của chánh niệm (sati) sẽ giúp tăng
cường chức năng thứ hai của nó là ghi nhớ.
3. Ảnh hưởng của sự chú ý liên tục lên
tiềm thức và trí nhớ sẽ làm sâu sắc và củng cố thêm khả năng trực giác của
thiền sinh, đặc biệt là trí tuệ trực giác – điều chúng ta quan tâm chính ở đây.
Trực giác không phải là một món quà cho không, biếu không. Cũng như các khả
năng tâm linh khác, nó sanh khởi lên từ những nhân duyên, điều kiện nhất định.
Trong trường hợp này, nhân duyên chủ yếu là bộ nhớ lưu trữ những suy nghĩ và
nhận thức trong tiềm thức. Hiển nhiên, những ký ức là mảnh đất màu mỡ để trưởng
dưỡng trực giác phải là những ký ức có cường độ mạnh, rõ nét và có nhiều đặc
tính khác biệt; bởi vì đó là những ký ức dễ tiếp cận nhất. Ở đây cũng vậy,
mối quan hệ nhân duyên của đối tượng nhận thức được lưu trữ trong ký ức có đóng
góp rất lớn. Những hồi ức loại này có tính liên kết lớn hơn những sự kiện riêng
rẽ, rời rạc và mơ hồ; và chúng sẽ tham gia tạo dựng những hình thái ý nghĩa mới
một cách dễ dàng hơn. Những hình ảnh hồi ức rõ ràng này sẽ là những
nhân tố kích thích và trợ giúp mạnh mẽ cho trực giác. Trong
những tầng sâu kín của vô thức, công việc thu thập và tổ chức vật liệu: bao gồm
tri thức và kinh nghiệm nhận thức, vẫn tiếp tục diễn ra một cách thầm lặng cho
đến khi nó chín muồi và nổi lên thành trực giác. Sự bùng nổ trực
giác ấy đôi khi bắt nguồn từ những sự kiện hết sức thường tình. Tuy nhiên, mặc
dù có vẻ là thường tình, song những sự kiện đó lại có khả năng liên
tưởng, kết nối mạnh nếu trước đó chúng đã là đối tượng của sự chú ý liên tục.
Công năng làm chậm và tạm dừng của ghi nhận thuần túy sẽ làm bộc lộ những chiều
kích sâu sắc của những sự việc đơn giản trong cuộc sống đời thường, và do đó
cung cấp tác nhân kích thích cho trực giác phát triển.
Điều này cũng được áp dụng với trí tuệ trực
giác chứng nghiệm chân lý Tứ Thánh Đế (bốn sự thật cao thượng:
khổ, nguyên nhân của khổ, con đường diệt khổ, và sự đoạn diệt khổ), mà đỉnh cao
là sự giải thoát hoàn toàn (arahatta). Trong kinh điển ghi lại nhiều
trường hợp các vị Tăng và Ni không thể đạt được trí tuệ trực giác khi thực hành
thiền. Tia chớp trực giác đôi khi chợt đến với họ trong những hoàn cảnh rất
khác nhau: khi vấp chân phải hòn đá hay lúc nhìn thấy một đám cháy rừng, khi
bắt gặp hình ảnh một đám bọt trên sông. Ở đây chúng ta thấy lại một điều khẳng
định câu nói dường như rất mâu thuẫn là: “với chủ ý, đạt đến trạng thái
không còn chủ ý”. Với chủ ý đưa toàn bộ ánh sáng chánh niệm soi chiếu
từng hành động và sự việc nhỏ nhất trong cuộc sống hàng ngày, cuối cùng trí tuệ
giải thoát sẽ sanh khởi.
Sự chú ý liên tục không chỉ cung
cấp mảnh đất màu mỡ cho trực giác phát triển, mà còn giúp chúng ta tận
dụng tốt hơn và thậm chí có thể tái lập lại những khoảnh khắc trực giác
ấy. Nhiều người hoạt động trong các lĩnh vực sáng tạo khác nhau đều phàn nàn
giống nhau về một kinh nghiệm là: tia chớp trực giác xuất hiện quá đột
ngột và biến mất quá nhanh đến nỗi phản ứng chậm chạp của tâm không kịp nắm bắt
được nó. Nhưng khi tâm đã được huấn luyện tạm dừng để quan sát, làm chậm lại và
chú ý liên tục, và nếu vô thức được tác động như đã nói ở trên, thì khoảnh
khắc trực giác sẽ trở nên hoàn chỉnh hơn, chậm rãi và mạnh
mẽ hơn. Trong trường hợp đó, tác động của nó sẽ đủ mạnh và rõ ràng, cho
phép chúng ta tận dụng đầy đủ khoảnh khắc trí tuệ trực giác ấy. Thậm
chí có thể kéo những xung động đang trên đà đi xuống lên tới đỉnh cao mới,
tương tự như những giai điệu nhạc trong một bài hát, khi đi xuống lại được hòa
âm lên cao, tiếp nối từ những nốt nhạc cuối cùng của giai điệu trước.
Tận dụng đầy đủ những khoảnh khắc trí
tuệ trực giác là điều quan trọng mang tính quyết định đối với sự tiến bộ
của thiền sinh trên đường tới đạo quả giác ngộ. Nếu như sự nắm bắt của thiền
sinh quá yếu, để những khoảnh khắc trí tuệ trực giác thoáng qua ấy trôi qua mà
không tận dụng triệt để cho công việc giải thoát, thì chúng có
thể sẽ không đến lại cho đến nhiều năm sau đó, hoặc có thể không
còn đến lại trong suốt cả cuộc đời. Tuy nhiên, khả năng duy trì
sự chú ý liên tục sẽ cho phép chúng ta tận dụng triệt để những cơ hội
như thế, và việc tạm dừng và làm chậm (mọi phản ứng-để quan sát) trong thiền
tập là công cụ quan trọng để đạt được khả năng ấy.
Qua sự phân tích về sự tạm dừng, làm chậm
và giữ yên, một trong những định nghĩa truyền thống về chánh niệm trong kinh
điển Pali sẽ trở nên dễ hiểu hơn, ý nghĩa sâu xa của nó trở nên rõ ràng
hơn: đó là chức năng anapilāpanatā, nghĩa đen là “không nổi trên
bề mặt, không trượt đi”, “Giống như một cái vò đất trên mặt nước”, như chú
giải nói. “Chánh niệm thể nhập sâu vào đề mục, thay vì lướt đi vội vàng,
qua loa trên bề mặt của nó”. Do đó, “không hời hợt, nông cạn” là một cách hiểu
đúng đắn về thuật ngữ đó, và đó cũng là một đặc tính thiết yếu của chánh niệm.
Nhận thức
trực tiếp
Tôi ước gì có thể tách mình ra khỏi thói quen để có thể nhìn một
cách mới mẻ, nghe mới mẻ và cảm nhận mới mẻ. Thói quen làm hỏng sự an
nhiên, tự tại của chúng ta.
G.C.Linchtenberg (1742-1799)
Trong phần trên, chúng ta đã nói
về thói quen tự động của các hành động bất thiện. Chúng ta đã thấy
cách giữ yên (tịnh chỉ) để duy trì sự chú ý thuần túy và liên
tục có thể ngăn chặn hoặc giảm bớt những phản ứng thô tháo, vội vàng, do
đó cho phép chúng ta đối diện với bất cứ hoàn cảnh nào với một cái tâm mới mẻ,
với sự nhận thức trực tiếpkhông bị cản trở bởi định kiến gây nên từ
những phản ứng tự động đó.
Với nhận thức trực tiếp chúng ta có cái
nhìn trực tiếp về thực tại, không qua những lăng kính đầy màu sắc và bóp
méo sự thật, không bị chi phối bởi các định kiến cảm xúc và thói
quen, hay sự thiên vị, ưa thích tri thức. Nghĩa là: đối diện trực tiếp với các
sự kiện thuần túy của thực tế, nhìn chúng một cách sống động và mới mẻ như là
lần đầu nhìn thấy.
Sức
mạnh của thói quen
Những phản ứng tự động thường ngăn đường
cản lối hiểu biết trực tiếp này không chỉ đến từ các xung động cảm xúc của
chúng ta. Rất thường xuyên chúng là sản phẩm của thói quen. Dưới
dạng đó, chúng ngày càng nắm chắc và chi phối chúng ta – có thể vận hành để đem
lại lợi ích hoặc làm hại chúng ta. Ảnh hưởng tốt của thói quen
được thấy trong “sức mạnh của sự thực hành liên tục, lập đi lập lại”. Sức mạnh
này bảo vệ những thành quả và kỹ năng của chúng ta – dù là công việc tay chân
hay đầu óc, dù là công việc thế gian hay công việc tâm linh – khỏi sự mất mát
hay quên lãng, và chuyển đổi chúng từ những tài sản bình thường, ngắn ngủi và
không hoàn hảo thành thứ tài sản an toàn, có chất lượng. Ảnh hưởng có
hại của các phản ứng tự động theo thói quen được thể hiện trong cái
chúng ta gọi là “sức mạnh của thói quen”: những ảnh hưởng gây suy yếu, trì
trệ và hạn chế, là sản phẩm của những loại hành vi, thái độ mang tính
cưỡng ép. Ở đây chúng ta sẽ chỉ chú ý đến những mặt tiêu cực của
thói quen có vai trò gây chướng ngại và che khuất sự nhận thức trực tiếp.
Như đã nói ở trên, các phản ứng theo
thói quen nói chung có ảnh hưởng lên thái độ hành xử của chúng ta mạnh mẽ hơn
các phản ứng ngẫu nhiên, tức thời. Các xung động cảm xúc trong ta có thể biến
mất cũng bất ngờ như khi chúng xuất hiện. Mặc dù hậu quả của nó có thể rất
nghiêm trọng và kéo dài xa đến tương lai, song ảnh hưởng của nó vẫn không thể
kéo dài và sâu đậm bằng ảnh hưởng của các thói quen. Thói quen bao
phủ mạng lưới rộng lớn và đan dầy của nó lên cuộc đời và suy nghĩ của
chúng ta, cố kéo thêm vào trong nó ngày càng nhiều hơn nữa. Các xung động cảm
xúc, tình cảm của chúng ta cũng thế, bị túm gọn trong chiếc lưới ấy và từ
những cảm xúc bộc phát thoáng qua được chuyển hóa thành những nét tính cách lâu
dài. Một cảm xúc thoáng qua, một sự dễ duôi, buông thả nào đó, một ý thích bất
chợt nảy sinh có thể sẽ trở thành thói quen nếu lập đi lập lại
nhiều lần, và chúng ta sẽ rất khó nhổ bật gốc rễ của nó. Nó sẽ trở thành một sự
khao khát khó kiểm soát và cuối cùng trở thành một hành động tự động mà chúng
ta không bao giờ tra vấn nữa. Sự thỏa mãn lập đi lập lại sẽ biến một nỗi khao
khát thành thói quen, và thói quen không được kiểm soát sẽ lớn mạnh lên thành
sự thúc ép, bắt buộc.
Một sự việc thường xảy ra là lúc đầu chúng
ta coi một hành động hay một thái độ nào đó trong tâm là không quan trọng đối
với cá nhân mình. Hành động hay thái độ đó có thể là bàng quan, thờ ơ và không
gây hậu quả về đạo đức. Ban đầu chúng ta sẽ thấy rất
dễ từ bỏ nó, thậm chí thay thế bằng một thái độ ngược lại, bởi
vì không có cảm xúc hay định kiến nào thúc đẩy chúng ta thiên vị một bên nào
cả. Nhưng do lập đi lập lại nhiều lần, chúng ta dần dần coi những loại hành
động và suy nghĩ mình lựa chọn đó là “thích thú, đáng mong muốn, và đúng đắn”,
thậm chí là “chính đáng” nữa; và do đó đồng hóa mình với nó, coi đó là tính
cách của mình. Hậu quả là, chúng ta cảm thấy bất cứ sự phá
vỡ nào đối với thông lệ đó là không thích thú hay sai trái. Bất
cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài cũng khiến chúng ta tức giận,
thậm chí còn coi là mối đe dọa tới “những nguyên tắc và lợi ích sống còn” của
mình nữa. Thực ra, những tâm hồn hoang sơ, dù là “văn minh” hay không, lúc nào
cũng nhìn những kẻ lạ mặt với “phong tục lạ đời” như là kẻ thù,
và cảm nhận sự có mặt thân thiện của họ là đầy thách thức và đe dọa.
Lúc
đầu, khi một thói quen nhất định không được coi là quá quan trọng, sự dính mắc
thành hình dần dần ấy không hướng tới bản thân của hành động nhiều bằng sự
thích thú do thông lệ thường làm không bị cản trở. Sức mạnh của
sự dính mắc vào thông lệ một phần đến từ sức ỳ của thân và tâm chúng
ta – sức ý đó là một động lực rất mạnh trong con người. Ở đây, chúng ta sẽ xem
xét một nguyên nhân nữa khiến mình dính mắc vào thông lệ. Do sức mạnh của thói
quen, một đối tượng - dù là đối tượng vật chất, một hành động hay cách suy nghĩ
– sẽ được đầu tư thêm bằng sự gia tăng cường độ cảm xúc, đến mức sự dính mắc
vào những thứ không quan trọng và tầm thường, vô nghĩa lại có thể trở nên mạnh
mẽ, dai dẳng như thể đó là những nhu cầu thiết yếu nhất. Vì vậy, thiếu kiểm
soát tâm có thể biến những thói quen nhỏ nhất thành những ông
chủ đầy quyền lực của cuộc đời chúng ta. Nó ban cho chúng quyền lực nguy
hiểm để hạn chế và làm cứng nhắc tính cách, hạn chế tự do tâm linh và
tri thức của chúng ta. Do phục tùng thói quen, chúng ta tự mua dây buộc
mình, và làm cho mình dễ bị tổn thương trước những dính mắc mới, sân
hận, định kiến và sở thích mới; nghĩa là những đau khổ mới. Mối nguy hiểm đối
với sự phát triển tâm linh do ảnh hưởng thống trị của thói quen ngày nay còn
nghiêm trọng hơn rất nhiều; bởi vì sự phát triển các thói quen đặc biệt dễ
nhận thấy trong thời đại ngày nay khi sự chuyên môn hóa và chuẩn hóa đã vươn
tới rất nhiều lĩnh vực tư tưởng và đời sống.
Do đó, khi xem xét những lời kinh
Tứ Niệm Xứ, phần hình thành nên trói buộc (kiết sử), chúng ta phải nghiên
cứu kỹ vai trò quan trọng của các thói quen:
…và
những trói buộc nào khởi lên do duyên cả hai (các giác quan và đối tượng của
chúng), vị ấy biết rõ như vậy. Cách thức các trói buộc chưa sanh được sanh khởi
như thế nào, vị ấy biết rõ như vậy.
Theo ngôn ngữ Phật học, loại chướng ngại
hôn trầm – thụy miên (thīna-middha-nīvarana: dã dượi, buồn ngủ) được
tiếp sức bởi thói quen, và làm cho sự nhu nhuyễn, nhẹ nhàng của thân và tâm (kāya,
citta-lahutā: khinh thân, khinh tâm) bị suy yếu.
Xu hướng mở rộng phạm vi ảnh hưởng của thói
quen này ăn sâu bén rễ ở ngay trong tâm chúng ta. Nó bắt nguồn không chỉ từ sức
mạnh (thụ động) của sự trì trệ (sức ỳ) đã nói ở trên, mà
trong nhiều trường hợp còn từ ý chí áp đặt và chinh phục của chúng ta. Một
số loại tâm hoạt động tích cực, cường độ mạnh, có xu hướng tự lập lại
chính nó. Mỗi tâm cố vật lộn để chiếm ưu thế, để trở thành trung tâm mà các
trạng thái thân và tâm khác yếu hơn phải vận động xung quanh, tự thay đổi
để thích ứng với và phục vụ cho trung tâm ấy. Xu hướng này không phải
là không bao giờ bị thách thức, song nó vẫn chiếm ưu thế, và ngay cả các loại
tâm phụ thuộc và ở ngoại vi cũng có cùng động lực vươn lên như thế. Điều này
rất giống với xu hướng tự khẳng định mình và độc đoán, áp đặt lên người khác
của những con người ngã mạn, khi họ tiếp xúc, giao tiếp với xã hội. Trong
y học, chúng ta có thể thấy nó giống như căn bệnh ung thư càng ngày càng
lan rộng; hay xu hướng lập lại thường gặp trong những trường hợp đột biến kỳ lạ
- một mối nguy hiểm vô cùng trong thời đại nguyên tử của chúng ta.
Bởi vì ý chí thống trị hiện hữu trong nhiều loại tâm, một suy nghĩ bất
chợt thoáng qua cũng có thể lớn mạnh thành một nét tính cách thường trực.
Nếu vẫn không bằng lòng với vị trí hiện tại, nó có thể hoàn toàn phá vỡ và
thoát ra khỏi các động lực sống hiện tại, cuối cùng cho đến lúc tái sanh, nó sẽ
trở thành chính trung tâm của một nhân cách mới. Ở trong mỗi chúng ta có vô số
nhân cho những kiếp sống mới như vậy, cho vô số “chúng sinh” sẽ ra đời, tất
cả chúng sinh ấy chúng ta nguyện sẽ giải thoát khỏi luân hồi, như lục tổ
của Thiền tông Trung Hoa đã từng nói.
Những thói quen có hại của thân và tâm có
thể phát triển rất mạnh, không chỉ khi chúng ta cố ý nuôi dưỡng
nó, mà ngay cả khi không nhận diện ra chúng hoặc buông tay để mặc
chúng tự tung tự tác. Rất nhiều thứ có gốc rễ sâu chắc trong tâm hiện
nay đều bắt nguồn từ những hạt giống nhỏ bé mà chúng ta đã gieo trong quá
khứ xa xôi. Sự phát triển các pháp bất thiện hay những thói quen có
hại có thể được kiềm chế một cách hiệu quả bằng cách dần dần phát triển
một thói quen khác: thói quen chú ý đến chúng một cách chánh niệm. Nếu
giờ đây, khi làm những việc quen làm một cách máy móc, chúng ta làm một
cách cẩn thận và có ý thức, và trước khi làm hãy dừng lại một chút để ghi nhận
thuần túy và suy xét – nó sẽ cho chúng ta cơ hội để xem xét kỹ thói quen
của mình và hiểu rõ mục đích việc làm, biết rõ nó có thích hợp hay không (sātthaka và sappāya-sampajañña: mục
đích tỉnh giác và thích nghi tỉnh giác). Nó cho phép chúng ta đánh giá sự việc
một cách mới mẻ, thấy một cách trực tiếp, không bị mê mờ do hành động theo thói
quen với suy nghĩ: “việc này là đúng đắn bởi vì trước kia mình đã từng làm như
thế”. Ngay cả khi thói quen có hại chưa thể nhanh chóng bị xóa bỏ,
khoảng thời gian tạm dừng để suy xét cũng sẽ ngăn bớt những hành động tự
động và thiếu suy nghĩ. Tâm chúng ta sẽ thường xuyên suy xét kỹ và kháng cự
lại, làm cho thói quen đó ngày một suy yếu dần đi, và khiến chúng ta dễ dàng
thay đổi hay loại bỏ nó hơn.
Cần phải nói rõ là thói quen, vốn được gọi
là “vú nuôi của con người”, không thể và không nên biến mất khỏi cuộc sống của
chúng ta. Chỉ cần nhớ xem, nhất là đối với những con người thành phố với cuộc
sống đông đúc và phức tạp, thật nhẹ nhàng biết bao khi chúng ta có
thể xử lý rất nhiều công việc khác nhau một cách tương đối máy móc mà
chỉ cần chú ý “một nửa”. Thói quen làm đơn giản hóa cuộc sống của chúng ta. Nếu
tất cả mọi công việc nhỏ nhặt, buồn tẻ đều phải làm với sự cố gắng đầy
chủ ý và chú ý sát sao thì thật là căng thẳng. Thực ra, rất nhiều công
việc tay chân, những công đoạn kỹ thuật trong nghệ thuật,
và ngay cả một số quy trình công việc đầu óc, nếu tiến hành một cách
khéo léo theo thói quen thường lệ sẽ mang lại kết quả tốt hơn và đều
đặn hơn. Tuy nhiên ngay cả sự đều đặn của các công việc thói quen ấy cũng sẽ
đạt đến điểm dừng. Nếu không được tiếp sức bởi một hứng thú mới, nó sẽ bộc lộ
triệu chứng mỏi mệt và bắt đầu suy thoái.
Tất nhiên, không phải tất cả mọi thói
quen nhỏ nhặt đều phải bị xóa bỏ, bởi vì nhiều thói quen là vô hại,
thậm chí còn có ích. Song chúng ta phải thường xuyên tự hỏi xem liệu mình vẫn
còn kiểm soát được chúng hay không; liệu mình có thể từ bỏ hay
thay đổi chúng tùy ý được hay không. Chúng ta có thể trả lời câu hỏi
này bằng hai cách: thứ nhất, chú ý đến các hành động theo thói quen của mình
một cách chánh niệm trong một thời gian; thứ hai, tạm thời
từ bỏ thói quen ấy nếu điều đó không làm tổn hại đến chính mình hay
người khác. Nếu chúng ta soi chiếu chúng bằng sự nhận thức trực
tiếp, nhìn hay thực hiện các hành động ấy như thể là lần đầu tiên, thì
những hành động thường lệ và thói quen nhỏ nhặt ấy sẽ trở nên rất thú vị. Điều
này cũng phát huy tác dụng đối với nghề nghiệp chuyên môn, môi trường làm việc
và các mối quan hệ của chúng ta trong trường hợp bị bế tắc bởi thói quen.
Mối quan hệ vợ chồng, quan hệ bạn bè và đồng nghiệp nhờ vậy cũng được cải thiện
rất nhiều. Một cái nhìn trực tiếp và mới mẻ sẽ cho chúng ta thấy rằng
mình có thể quan hệ với mọi người hoặc làm mọi việc theo một cách
khác, hiệu quả hơn cách mình vẫn thường làm theo thói quen trước kia.
Khả năng có thể từ bỏ những thói quen nhỏ
nhặt đó rất có giá trị trong cuộc chiến chống lại những khuynh hướng nguy hiểm
trong tâm chúng ta. Nó cũng là một sự trợ giúp lớn mỗi khi chúng ta phải đối
diện với những thay đổi nghiêm trọng trong cuộc đời, khi hoàn cảnh tước bỏ mất
những thói quen thiết yếu của chúng ta. Làm mềm hóa các lối mòn suy nghĩ và
thái độ cứng nhắc sẽ làm tươi mới lại năng lượng sống, sức mạnh tinh thần và
khả năng tưởng tượng. Nhưng điều quan trọng hơn cả là, trên mảnh đất tơi mềm
ấy, chúng ta sẽ gieo được những hạt giống phát triển tâm linh đầy sức sống.