Lời Nói Đầu
Phần đông Phật tử quy y Tam Bảo mà chưa ý thức nhiệm vụ mình phải làm gì đối
với mình, đối với mọi người, đối với đạo. Hoặc có ít người ý thức, lại là ý
thức sai lầm, mình lầm hướng dẫn kẻ khác cũng theo đường sai lầm của mình. Vì
thế, tín đồ Phật giáo số lượng rất đông, phần phẩm lại quá ít.
Những sách vở chỉ dạy bổn phận, trách nhiệm người Phật tử tại gia đã được dịch
hoặc viết bằng chữ Việt khá nhiều như: Kinh Ưu-Bà-Tắc, Kinh Thi-Ca-La-Việt, quyển
Là Phật Tử, v..v… Có lẽ những quyển ấy không được phổ biến khắp Phật tử, hoặc
vì chỉ dạy rộng nhiều nên hàng Phật tử tại gia không nhớ thực hành. Tôi viết
tập sách này (Trách Vụ Phật Tử Tại Gia), lúc đầu với ý định đăng trong tạp chí
Từ Quang, sau thấy cần phổ biến nên cho in thành sách. Do đó, nó rất đơn lược,
hình thức gần như một bài giảng. Tôi chỉ hy vọng bổ túc kịp thời những khuyết
điểm của Phật tử tại gia đem đến trong mọi gia đình Phật tử những hình ảnh đẹp
đẽ của Phật giáo.
Tôi mong những nhận xét trong đây được Phật tử phổ dụng và quý Thầy Giảng sư,
Trụ trì xem đó là lối đi cần thiết trong hiện tại, đem ra hướng dẫn tín đồ. Để
ngày mai này, tín đồ Phật Giáo không còn những tệ đoan quy y cầu độ rỗi lúc lâm
chung….. mà toàn là Phật tử chân thành chánh tín!
Phật tử tại gia là người con Phật đem giáo lý Phật dạy áp dụng vào gia đình
khiến toàn cả gia đình sanh hoạt theo đường lối Phật giáo. Trách nhiệm và công
vụ của Phật tử là hoán cải nhân gian trở thành một xã hội thuần túy Phật giáo.
Tinh thần Đại Thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa cõi Ta Bà uế trược này
trở thành Cực Lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật giáo khắp mọi từng lớp quần
chúng là điều Phật tử phải thực hiện.
Theo quan niệm chung của Phật tử xưa nay, khi nói đến trách nhiệm truyền bá
Phật giáo, đều công nhận “do Tăng già đảm nhiệm”, hoặc tiến hơn lại bảo: “Hai
giới xuất gia, tại gia chung gánh vác”, theo tôi, tôi nói “truyền bá Phật giáo
được phổ biến, linh động trong quần chúng do Phật tử tại gia thực hiện”. Tại
sao? Bởi vì mỗi cá nhân, mỗi gia đình Phật tử thực hiện đúng đường lối Phật dạy
những cái hay cái đẹp ấy sẽ ảnh hưởng sang những cá nhân và gia đình khác dần
dần nhân gian biến thành Tịnh Độ. Nếp sống của người xuất gia cao siêu cách
biệt quần chúng quá, dù cố gắng cách mấy cũng khó ảnh hưởng lây. Vì thế, Phật
tử tại gia có trách nhiệm làm linh động và sống dậy tinh thần Phật giáo qua nếp
sống cá nhân và gia đình mình.
II.
Phật Giáo Hữu Ích Hay Vô Ích?
Phật tử tại gia lâu nay có quan niệm sai lầm, khi nói đến Phật sự là đinh ninh
cúng chùa, cất chùa, trai nguyện, công quả, v.v… lãng quên yếu tố căn bản “làm
sống dậy lời Phật dạy”.
Giả sử có người phê bình: Phật giáo chỉ lý thuyết suông không ích lợi gì cho
quần chúng. Phật tử chúng ta chấp nhận lời phê bình này không? Hẳn là không.
Nhưng muốn cải chính, chúng ta căn cứ vào đâu để chứng minh sự hữu ích của Phật
giáo đối với quần chúng. Căn cứ vào sự cầu nguyện quốc thới dân an làm bằng
chứng được chăng? Huyền diệu quá, quần chúng không tin nổi. Căn cứ vào sự cúng
chùa đời sau được phước chăng? Xa xôi quá, quần chúng không thể nhận tới. Còn
bao nhiêu chứng cứ nữa thảy đều cao siêu khó thấy. Quần chúng đòi hỏi có sự lợi
ích thiết thực, chính mắt họ trông thấy mới chịu tin. Vì thế, Phật tử tại gia
phải cố gắng thực hiện, lấy gia đình mình làm cứ điểm lợi ích thiết thực của
Phật giáo để trả lời mọi nghi ngờ và phê bình của quần chúng.
Hơn nữa, một vị Tăng đứng lên giảng hạnh từ bi, nhẫn nhục v..v… quần chúng cho đó
là một mớ lý thuyết khô khan không thể thực hiện được. Nếu vị Tăng ấy chính bản
thân thực hiện hạnh từ bi, nhẫn nhục, quần chúng lại bảo dĩ nhiên ông ấy phải
làm được. Vì ông không có gia đình, không lo sinh kế, còn chúng tôi phải bao
bọc gia đình, phải lo sinh kế, làm sao bì mấy ông ấy được. Chỉ có người Phật tử
tại gia vẫn sống trong hoàn cảnh như họ mà thực hành được đạo đức mới là việc
đáng cho họ chú ý. Phật giáo hữu ích hay vô ích chính do sự thực hiện hay không
của hàng Phật tử tại gia vậy.
III.
Phần Tu Tập
Muốn cho quần chúng thấy cái hay, cái đẹp của Phật giáo, Phật tử tại gia trước
hết lấy giáo lý điêu luyện cá nhân mình, chính bản thân mình là phản ảnh trung
thành của Phật giáo. Sự kiện đầu tiên trong việc điêu luyện mình là Quy Y và
Thọ Giới.
A.
Quy Y – Thọ Giới
Quy y là đặt cho mình một lý tưởng, vạch một lối đi. Phật là mục tiêu cao cả để
ta nhắm. Pháp là đường lối tiến đến mục tiêu ấy, Tăng là người hướng dẫn ta đi
đúng đường lối tiến lên mục tiêu đã nhắm. Cho nên Quy y là định hướng của người
Phật tử. Quy Y rồi cá nhân mình không còn cái khổ phiêu bạt linh đinh của con
người vô lý tưởng.
Năm giới cấm là phần thiện tiêu cực của Phật tử. Giữ trọn 5 giới là nhân cách
con người được đầy đủ và bảo đảm một con người toàn vẹn ở tương lai. Sự thảm
khốc của cảnh tương tàn tương xác. Sự khổ đau cướp giựt lẫn nhau. Sự xấu xa của
gia đình thương luân bại lý, sự nghi ngờ trong xã hội điêu ngoa, sự say sưa ở
trà đình tửu điếm, người Phật tử đều vượt khỏi những cái tủi nhục này. Ngược
lại người Phật tử luôn luôn bảo vệ sanh mạng nhau, sẵn sàng tôn trọng tài sản
của nhau, biết giữ gìn can thường đạo lý sống chân thành tự trọng và lúc nào
cũng sáng suốt khôn ngoan. Chỉ giữ 5 giới cá nhân đã khỏi sa vào hố trụy lạc,
gia đình được êm ấm tin yêu. Nếu toàn thể xã hội biết giữ 5 giới thì hạnh phúc
thay cho cuộc sống thanh bình! Tuy nhiên đã thực hành phần thiện tiêu cực,
chúng ta cần phải tiến lên phần thiện tích cực, tức là học 5 hạnh của Phật.
B.
Năm hạnh của Phật
Năm hạnh căn bản của Phật, là con Phật ai ai cũng phải học và thực hành. Ở đây
trong phạm vi Phật tử tại gia áp dụng 5 hạnh vào đời sống thực tế để tạo cho
mình một nếp sống đẹp đẽ và đem lại cho gia đình, cho xã hội an lạc, thuận hòa
và mỹ lệ. Năm hạnh là: Từ Bi, Nhẫn nhục, Hỷ xả, Tinh tấn, Trí tuệ.
1. Từ Bi – Tự tâm ta phát hiện lòng thương
chân thật, lòng thương này được biểu lộ trong hành động, ngôn ngữ chia vui sớt
khổ cho nhau. Phật tử tại gia, đối tượng thực hiện lòng thương này là cha mẹ,
anh em, vợ con, sau cùng là thân thuộc hàng xóm. Trong gia đình, lúc nào người
Phật tử cũng đem lại sự an vui cho cha mẹ, anh em, vợ con, không bao giờ làm
cho ai buồn khổ. Nếu cha mẹ, anh em, vợ con có điều gì đau khổ chính mình phải
tìm cách giải cứu san sớt cho được vơi đi. Tức nhiên phải thông cảm nhau vui
cùng vui, khổ chung chịu khổ. Tình thương chân thành là sợi dây liên lạc xiết
chặt mọi người trong gia đình thành một khối, thiếu nó gia đình có thể rời rạc
đến tan rã. Ngoài ra đối với thân thuộc, hàng xóm chúng ta cũng thông cảm chia
vui sớt khổ cho nhau. Những khi hoạn nạn, những lúc đau buồn của người thân
thuộc nên coi như là hoạn nạn của chính ta, cố gắng tìm cách giải cứu. Chỉ có
chiếc gàu tình thương chân thật mới tát vơi được dòng sông đau khổ.
2. Nhẫn Nhục – Đã thương nhau thì phải hòa thuận
nhịn nhường nhau. Nhất là đối với cha mẹ, dù mắng rầy quở phạt có phần quá
đáng, người Phật tử vẫn nhẫn nhịn cam chịu, không bao giờ dám to tiếng chống
đối. Đợi khi nào cha mẹ nguôi cơn giận, ta mới nhỏ nhẹ thưa lại những nỗi hàm
oan của ta. Với anh em, ta cũng nhẫn nhịn nhau những khi buồn tức, không nên để
cho cơn giận dữ nổi lên làm phân ly tình cốt nhục. Nghĩa vợ chồng phải nhường
nhịn nhau, khi chồng giận vợ nhường, khi vợ tức chồng nhịn, đợi qua cơn tức
giận sẽ nhã nhặn khuyên bảo nhau. Bất cứ sự chung đụng nào nếu có đến hai người
là có bực tức rầy rà. Thế nên, Phật tử, phải khéo nhường nhịn nhẫn nại để giữ
hòa khí vui đẹp trong gia đình. Có khi nhường nhịn người ngoài dễ hơn nhường
nhịn người trong nhà. Bởi vì người ngoài coi nhau như là khách nhịn một chút
cho qua, ít khi gặp lại nhau, người trong nhà ra vào gặp nhau nên có gì bực tức
khó nhịn được. Tập nhẫn nhục phải thực hiện ngay trong gia đình trước, khi ở
gia đình đã thành công thì đối với người ngoài không khó. Có nhiều người đối
đãi với bạn bè hàng xóm rất nhã nhặn vui vẻ, trái lại cư xử trong nhà thì thô
bỉ cáu kỉnh. Đó là không biết thực hiện hạnh nhẫn nhục cho chính đáng. Nhẫn
nhục bậc thấp nhất là những người có quyền thế bề trên, bậc trung là những
người ngang hàng mình, bậc thượng là những kẻ dưới tay mình, Phật tử chúng ta
phải tiến từ bậc thấp đến bậc cao tột cùng.
3. Hỷ Xả – Đã nhẫn nhục được cần phải hỷ xả
không nên ôm ấp buồn phiền trong lòng. Có khi ta nhịn được cơn tức giận, mà
trong lòng còn cưu mang uất hận. Như vậy không sớm thì muộn khó tránh khỏi sự
cãi vã nhau. Cho nên nhường nhịn nhau rồi, cần phải vui vẻ tha thứ cho nhau
không bao giờ nhắc đến lỗi lầm ấy nữa. Đối với anh em, vợ chồng, con cháu sự hỷ
xả rất thiết thực cần yếu. Đã là phàm tục như nhau thì có ai tránh được sự lỗi
lầm, khi người này phạm lỗi lầm người kia vui vẻ tha thứ, lúc người kia phạm
lỗi lầm người này sẵn sàng hỷ xả. Được vậy, trong gia đình sẽ giữ mãi được vẻ
ấm êm tình hòa mục, bằng không thì khó thấy sự vui vầy. Cha mẹ luôn luôn có
thái độ bao dung sẫn sàng tha thứ lỗi lầm của con. Anh em rộng lượng dung thứ
nhau cho tình cốt nhục thêm nồng. Vợ chồng vui vẻ tha thứ cho nhau để giữ một
niềm thủy chung như nhất. Tuy nhiên, vui vẻ tha lỗi nhau, không có nghĩa không
chỉ dạy nhắc nhở những lỗi lầm của nhau. Tinh thần Phật tử luôn luôn muốn xây
dựng mọi người chung quanh mình được tốt đẹp, nếu thấy người có điều quấy liền
nhắc nhở chỉ dạy, khi người nhận lỗi liền vui vẻ tha thứ. Ở trong gia đình
người phạm lỗi phải can đảm nhận lỗi, người chỉ lỗi vui vẻ thứ tha. Không nên
có tính cách thấy người tha lỗi mình cứ phạm lỗi mãi. Bầu không khí hòa nhã vui
vẻ sẽ có nơi những gia đình nào người trong ấy biết nhẫn nhục hỷ xả cho nhau.
4. Tinh Tấn – Chuyên cần cầu tiến là sự tất yếu
của con người hướng thượng. Phật tử tại gia là người sống trong cảnh trần tục
mà luôn luôn ôm ấp ý chí hướng thượng, lúc nào cũng cần cầu tiến.
Trước
nhất, Phật tử tại gia chuyên cần chuyển hóa tâm niệm, hành động, ngôn ngữ xấu
xa của mình trở thành tốt đẹp. Cố gắng thế nào thấy mình hôm nay đã tốt hơn hôm
qua. Tập quán xấu xa gắn chặt trong tâm thức ta đã lâu rồi không thể nhất đáng
sửa đổi được ngay, phải là sự chuyên cần bền bỉ mới có thể thắng được nó. Giá
trị tu tập là ở chỗ cố gắng cải hóa bản thân mình.
Thứ
đến, Phật tử chuyên cần làm việc hằng ngày theo khả năng mình để đem lại cơm no
áo ấm cho gia đình. Chúng ta còn mang xác thân này dĩ nhiên sự ăn mặc không thể
thiếu được. Nếu cả ngày Phật tử bàn luận những lý thuyết cao siêu huyền diệu mà
trong gia đình vợ con đói rách nheo nhóc, lý thuyết sẽ trở thành chất vị chua
cay khiến vợ con chán sợ nó. Hơn nữa, Phật tử tại gia còn phải thực hiện đức Từ
Bi của Phật, nên phải chuyên cần làm lụng may ra có dư giả chút ít để giúp đỡ
những người tàn tật đói thiếu làm vơi phần nào đau khổ cho nhân loại.
Sau
cùng, Phật tử chuyên cần chuyển hóa và điều hòa mọi người trong gia đình. Làm
thế nào cả nhà đều chung thờ một lý tưởng, đều cư xử thuận hòa êm ả, đều theo
một chiều hướng vươn lên. Được thế người Phật tử mới thấy tròn bổn phận của mình.
5. Trí Tuệ – Đạo Phật rất chú trọng phần trí
tuệ. Có trí tuệ con người mới khỏi lầm lạc đau khổ. Dù người cố gắng làm mọi
việc lành, nếu thiếu trí tuệ phán đoán chưa hẳn việc làm ấy đã là lành. Phật tử
chúng ta nếu thiếu trí tuệ không thể thành một Phật tử chân chánh được.
Muốn có trí tuệ, Phật tử phải phá những cái tin tưởng sai lầm. Tin đồng bóng,
xăm quẻ, tướng số, v.v… là những hiện tượng mê mờ. Đành rằng đôi khi tướng số
cũng đoán trúng, nhưng đó chỉ là do nhân quả nghiệp báo của chúng ta mà thôi.
Trong sách tướng có câu: “Hữu tâm vô tướng, tướng tự tâm sanh; tướng vô tâm,
tướng tùng tâm diệt“. Nghĩa là người có tâm tốt mà không có tướng tốt;
tướng tốt sẽ tùy tâm tốt phát hiện, người tướng tốt mà không tâm tốt, tướng tốt
sẽ theo tâm mà tiêu diệt. Như vậy tất nhiên tùy tâm niệm, hành động tốt xấu của
chúng ta, theo nhân quả sẽ hiện ra tướng tốt xấu nhất là sự ỷ lại thần quyền là
hiểm họa tiêu diệt trí tuệ của chúng ta.
Để được khai thông trí tuệ, người Phật tử phải học Kinh điển Phật giáo. Chúng
ta chưa có thể tự phát trí huệ, phải nhờ ngọn đuốc trí tuệ của Phật chiếu phá
mê mờ cho ta. Những lời vàng ngọc trong Kinh điển là do Phật chứng Nhất Thiết
Trí phô diễn còn ghi lại. Chúng ta y cứ vào đó làm nền tảng khiến trí tuệ khai
phát. Nếu không chịu học hỏi giáo lý, người Phật tử ấy chỉ là tấm bia không
khác. Vả lại, người ấy muốn tự tu hay chuyển hóa người cũng không biết lấy đâu
làm phương hướng.
Nhận xét chân chánh là căn bản của trí tuệ. Người Phật tử nhận xét sự vật trong
vũ trụ theo hai chiều Nhân Quả và Nhân Duyên. Đứng về chiều thời gian, vạn vật
thành bại, hư nên, tốt xấu… đều theo định luật nhân quả. Như muốn có lúa ta
phải gieo hạt lúa, vun phân xới đất làm cỏ, mưa, nắng, sương và chăm sóc, ngăn
ngừa sâu bọ là những điều kiện phụ trợ. Có đủ những điều kiện ấy, trải qua một
thời gian, ta sẽ được những bông lúa. Từ nhân hạt lúa, đến quả nhiều bông lúa,
bản thân cây lúa có đủ những yếu tố bổ trợ và phá hoại. Không giản dị có hạt
lúa sẽ có bông lúa.
Thuyết Nhân Quả gồm có chánh nhân, trợ nhân, thuận nhân, và nghịch nhân.
– Hạt lúa đem ra gieo là chánh nhân.
– Phân đất, nứơc…. là trợ nhân;
– Mưa, nắng, thuận mùa là thuận nhân.
– Sâu bọ, nắng hạn, bão lụt, là nghịch nhân.
Đó là phân tích tổng quát, nếu phân tích chi tiết còn lắm điều phiền toái. Nhân
quả liên chuyển cả ba thời: quá khứ – hiện tại – vị lai. Chúng ta muốn phán xét
một việc phải nhìn suốt ba thời, không nên cắt xén từng đoạn mà đoán định.
Đứng về mặt không gian, không một vật nào tự nó hình thành, phải do nhiều nhân
duyên chung hợp; muôn vật trong vũ trụ đều liên hệ nương nhờ nhau, “cái này
có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không“. Cái nhà không tự có,
sở dĩ có là nhờ cây, gạch, ngói, xi măng, sắt, cát, v..v… Bao nhiêu điều kiện
chung hợp lại. Nếu một trong những điều kiện quan trọng ấy thiếu, cái nhà khó
thành tựu. Trong Kinh Phật, khi nói đến sự tương quan, tương duyên của vạn vật
thường lấy bó lau làm thí dụ. Bó lau sở dĩ đứng vững được nhờ nhiều cây nương
nhau, nếu ngã đi một vài cây thì bó lau cũng phải ngã. Sự liên hệ chằng chịt
giữa cuộc đời mật thiết nhau như thế.
Lý Nhân Quả, Nhân Duyên bao quát cả vũ trụ và nhân sinh, nhưng Phật giáo lấy
nhân sinh làm đối tượng, nên hai thuyết lý này được áp dụng triệt để vào sự tu
tập của con người.
Người hiểu rõ lý Nhân Quả áp dụng vào sự tu tập bản thân sẽ được những đức tính
tốt:
1- Can đảm không kêu than oán trách, khi gặp cảnh khổ đến với mình. Vì biết do
nhân mình đã tạo trong hiện tại, hoặc quá khứ còn thừa.
2- Dũng tiến tu thiện, vì biết gieo nhân lành sẽ được hưởng quả lành.
3- Cẩn thận khi sắp làm, sắp nói, vì sợ gây nhân xấu sau chịu quả xấu.
4- Không ỷ lại, vì biết mọi việc do mình tạo nhân, mình hưởng quả không phải
sức thiêng liêng nào ban.
5- Không kiêu căng trong cảnh giàu sang, vì biết nhờ nhân lành đời trước nếu
khời hành động xấu sau này sẽ chịu quả khổ.
Người đạt được lý Nhân Duyên đối với xã hội có nhiều ý niệm hay:
1- Không ích kỷ, vì biết mình và người tương quan nhau, người khổ tức là mình
khổ.
2- Không chán ghét xã hội muốn trốn tránh, vì biết mình không thể ly khai xã
hội được.
3- Tích cực lợi tha, vì biết người tốt là mình tốt.
4- Không quá khổ đau khi thấy sự hoại diệt, vì biết có hợp phải có tan.
Biết nhận xét và áp dụng lý Nhân Quả, Nhân duyên như vậy là người có trí tuệ tự
tạo cho mình một cuộc sống linh hoạt hợp lý.
C. Tụng
Niệm
Để thêm sức mạnh vào sự cải đổi bản thân người Phật tử nếu đủ phương tiện mỗi
ngày dành ra 15 đến 20 phút đến trước bàn Phật tụng kinh niệm Phật, hoặc tham
Thiền theo pháp quán ngũ đình tâm. Giờ phút tụng niệm phải chí thành khẩn thiết
chuyên giữ 3 nghiệp thanh tịnh. Trọn ngày người tại gia lăn lộn với trần tục
làm sao khỏi dính vài vết nhiễm ô trong tâm niệm. Đến trước bàn Phật tụng niệm
cốt gột rửa những vết nhơ ấy khiến tâm hồn đựơc thanh tịnh. Trước khi tụng
niệm, Phật tử mặc bộ y phục sạch sẽ, thắp hương, lên đèn thơm tho sáng suốt,
tượng Phật ngự trên bàn tịch tịnh tôn nghiêm, bầu không khí thanh khiết này
chuyển hóa tâm hồn trở thành thanh tịnh. Giờ phút tụng niệm trang nghiêm thành
kính giúp ta thêm vững lòng tin và lãng quên mọi sự buồn đau gian khổ.
Nếu trường hợp không thể có bàn Phật mà không có thì giờ rảnh rỗi, mỗi ngày
trước khi đi ngủ, Phật tử nên ngồi yên tịnh độ 5 đến 10 phút để kiểm điểm lại
hành động trong ngày và tưởng nhớ 5 hạnh của Phật. Có thế, ta mới biết lỗi lầm
mà tránh và cố gắng tiến lên theo các hạnh lành.
IV.
Phần Phật Sự
Lý Nhân Duyên đã cho ta thấy trong vũ trụ không có một vật nào đơn độc tự sống.
Đã có sống tức liên hệ nhau, giữa mình và mọi người, mình và vạn vật. Bởi sự
liên hệ ấy, người Phật tử không thể tự tu riêng mình, buộc phải cảm hóa những
người chung quanh mình cùng tu.
A.
Cảm hóa gia đình
Những người gần gũi nhất với Phật tử tại gia là cha mẹ, anh em, vợ con. Tuy mỗi
người có quyền tôn thờ một lý tưởng riêng, nhưng trong gia đình mà lý tưởng
khác nhau là cái cớ khiến tình thương lợt lạt. Phật tử cố gắng cảm hóa gia đình
không phải là độc tài, cái gì mình theo bắt trong gia đình phải theo, mà vì
muốn đem lại tình thương và hạnh phúc cho gia đình. Cha mẹ là bậc bề trên, kẻ
làm con thương cha mẹ không gì hơn khuyên cha mẹ hướng về đạo đức. Nếu cha mẹ
đã Quy Y Tam Bảo, người con phải tạo những trợ duyên tốt cho cha mẹ tiến lên
trong việc đạo đức. Nếu cha mẹ chưa biết Phật pháp, người con cố gắng khuyên
giải và tự mình thể hiện những cái đẹp Phật giáo để cha mẹ trông thấy cái hay
mà trở về đạo pháp.
Tình cốt nhục muốn được sâu đậm thiết tha là anh em phải chung thờ một lý
tưởng. Nếu anh, em chưa biết Phật giáo người Phật tử nên hướng dẫn đến với đạo.
Nhưng trước tự bản thân mình phải theo, sống thực theo các hạnh từ bi, nhẫn
nhục, v.v… để anh em nhìn vào ta thấy được cái gì cao đẹp. Những nét đẹp nơi ta
sẽ chuyển hóa tâm hồn huynh đệ ta hướng về Phật giáo.
Đối với vợ hoặc chồng, người Phật tử sẽ áp dụng Phật giáo cư xử trong gia đình
khiến vợ hoặc chồng cảm thấy Phật giáo đem đến cho gia đình một ân huệ quý báu.
Không nên bắt buộc vợ hoặc chồng theo Phật giáo mà phải tự mình làm cao đẹp
Phật giáo để bạn mình cùng chuyển hướng theo.
Con cháu trong nhà, người Phật tử phải khéo huấn luyện dạy dỗ chúng những gương
hay hạnh tốt trong Phật giáo khiến chúng thấm nhuần Phật giáo từ thuở bé. Nhất
là Pháp Lục Hòa, hằng giảng dạy chúng ăn ở cư xử với nhau thành nếp hòa thuận,
tin yêu, không nên hững hờ cho chúng còn bé không cần biết đạo đức, đến khi
chúng khôn lớn chưa từng biết gì về đạo Phật nghe ai nói gì hay theo, chừng ấy
kẻ làm cha mẹ hối hận đã muộn.
Hương vị đạo đức cá nhân thấm dần vào gia đình đến khi toàn cả gia đình đều bát
ngát mùi hoa Ưu Đàm, đó là Phật tử tại gia đã thành công một nhiệm vụ gần.
B.
Cảm hóa láng giềng
Hương vị đạo đức của từng gia đình các Phật tử sẽ ảnh hưởng sang hàng xóm.
Trong xã hội tương quan này, cái gì hay dĩ nhiên sẽ ảnh hưởng đến những người
chung quanh, cái gì dở cũng thế. Cho nên Phật tử lấy đạo đức thực tự bản thân,
gia đình cảm hóa người lân cận là điều căn bản chân chính. Chúng ta không cần
kheo khoang Phật giáo hữu ích, cao siêu, v.v. chỉ cần các Phật tử biết sống
thực theo Phật giáo.
Phàm làm việc gì người ta mong kết quả lợi ích, theo Phật giáo cũng thế. Phật
tử tại gia muốn cảm hóa những gia đình bên cạnh mình hướng về Phật giáo, trước
phải đem Phật giáo làm lợi ích thiết thực trong gia đình mình thì sự cảm hóa
mới có hiệu quả. Ngược lại, nếu người mà nhìn vào gia đình của Phật tử dẫy đầy
một màu thù hận, buồn khổ thì khó mong kết quả. Dù Phật tử ấy học thuộc lòng
năm mười quyển Kinh, tài hùng biện tuyệt diệu đi nữa cũng không thể hướng dẫn
người chung quanh mình đến đạo được. Muốn lợi tha quyết định trước phải tự lợi.
C.
Cư xử với bạn đạo
Chúng ta muốn cảm hóa người chưa biết đạo trở về với Phật giáo, nếu trong tình
đạo hữu cùng nhau mà cư xử bất nhã, hoặc giận hờn thù nghịch nhau thì người
ngoài làm sao dám bước chân vào đạo. Cho nên, người Phật tử biết thương đạo,
thương quý Thầy, là bạn đạo phải cư xử với nhau rất hòa mục, thương yêu nhau
như con một nhà. Tuy rằng bạn đạo không phải tình cốt nhục, nhưng cùng thờ một
lý tưởng, cùng tôn Đức Thích Ca là Từ Phụ thì đâu khác tình cốt nhục. Những
điều chia rẽ buồn phiền nhau là làm nhục cho đạo, làm đau khổ cho quý Thầy,
người Phật tử chân chánh không nên có.
Đã là phàm phu như nhau, làm gì tránh khỏi những ưu điểm và khuyết điểm. Anh em
một cha chưa hẳn tánh tình giống nhau, huống chi bạn đạo là con nhiều nhà mà có
thể giống hệt nhau được. Biết như vậy, khi gần nhau chúng ta nên thấy những
điểm tốt của bạn nhiều hơn và sẵn sàng tha thứ những điều dở của bạn. Huynh đệ
hạp ý nhau được phần nào tốt phần ấy, đừng tham lam muốn bạn mình giống hệt
mình. Chung lo việc đạo phải đặt lý tưởng lên trên hết, những tự ái cỏn con
gắng dẹp qua một bên. Biết thương yêu nhau, đùm bọc nhau là Phật tử làm đẹp cho
Phật giáo khiến những người ngoài thèm muốn đến với đạo. Phật sự quan trọng là
Phật tử phải sống hòa thuận vui vẻ với nhau.
D.
Tham gia việc Từ Thiện
Phật tử biết tu theo hạnh Từ Bi của Phật đối với những kẻ sẵn sàng thương xót.
Phật tử tùy khả năng cứu giúp những người chung quanh mình khi họ gặp những
hoàn cảnh khổ đau. Cứu trợ người là hành động đẹp khiến người ta cảm mến trở về
với Phật giáo. Ngoài ra, Phật tử tùy sức sẵn sàng góp công vào những việc từ
thiện xã hội. Lòng từ bi bao giờ cũng vui vẻ chia cơm sớt áo cho người đói rách
cùng khó. Có người tụng kinh rất sành, niệm Phật rất nhiều, nhưng gặp người
nguy khổ đến nhờ cứu giúp thì gương mặt lạnh lùng như sắt đá.
Chúng ta không phải tu với Phật và chỉ nhớ cảnh Cực Lạc ở Phương Tây, mà phải
tu với chúng sanh, nhớ cảnh đau khổ của chúng sanh ra tay cứu giúp. Gặp người
đau khổ, chúng ta nên đặt mình trong hoàn cảnh của họ để cùng thông cảm nỗi khổ
đau với họ. Sự giúp đỡ nhiều ít không quan trọng, quan trọng ở chỗ thông cảm
nỗi khổ của họ hay không. Tuy giúp của ít mà thông cảm nỗi khổ đau của họ, còn
hơn là giúp nhiều mà lạnh lạt vô tình. Bố thí là phương tiện đầu hướng dẫn
người về với Phật giáo.
E.
Đối với Tam Bảo
Người Phật tử đã làm bổn phận trong gia đình, ngoài xã hội, còn có trách nhiệm
gần gũi liên lạc với ngôi Tam Bảo.
1. Tránh hai thái độ cực đoan –
Sự liên lạc giữa Phật tử với Tam Bảo là lẽ dĩ nhiên không thể thiếu được. Nhưng
tới lui lo lắng phải có chừng mực, giới hạn không nên đi quá trớn.
Có một ít Phật tử tại gia thuần tín đối với Tam Bảo: Hoặc là chồng thì ỷ quyền
chồng trọn ngày chạy lo Phật sự, bỏ phế việc làm ăn nhà cửa, chẳng thiết đến vợ
con để vợ con sống cơ cực nheo nhóc. Đó là cái cớ khiến vợ con phiền trách chán
nản đạo đức, đôi khi khởi ác ý đối với Tam Bảo là khác. Hoặc là vợ ỷ tay cầm
chìa khóa xuất phát cúng kiếng bất chấp chồng con, nhiều khi quên cả sự đủ
thiếu no đói trong gia đình, có bao nhiêu đều đóng góp vào chùa cả đến khi
chồng con hay được đâm ra oán trách Tăng ni lánh xa Phật giáo. Thế là mất cả
lòng tin tưởng trong gia đình, sống trong cảnh ngờ vực nhau. Tuy nhiên, cúng
chùa lo Phật sự là có phước, nhưng phước chỉ riêng mình để vợ hoặc chồng con
hủy báng Tam Bảo, lánh xa Phật giáo, phước nhỏ ấy đâu đủ bù tội lớn kia. Hơn
nữa, người láng giềng nhìn vào gia đình đạo Phật mà buồn tẻ, cắng đắng như vậy,
cón ai dám theo Phật giáo. Thế là, vô tình Phật tử xúi dục người xa lánh Đạo
Phật.
Ngược lại, có một ít người tin Phật mà bất chấp chùa chiền, không cần biết đến
Tăng ni, chỉ ở nhà tụng kinh niệm Phật cho thế là đủ. Đành rằng tu là tự sửa
đổi tâm tánh, hành động của mình cho tốt đẹp, đi chùa không phải là làm cho
mình tốt. Nhưng, ly khai chùa chiền, Tăng ni nhờ ai chỉ dạy phương pháp sửa đổi
tâm tánh? Lại nữa, người Phật tử tại gia mà không liên lạc với chùa chiền, Tăng
ni thì không phải là Phật tử. Vì trong kinh Phật đã dạy, cư sĩ là người gần gũi
phụng sự Tam Bảo. Tam Bảo là chỗ y cứ cho mọi người hướng về Phật giáo, nếu ta
tách rời chùa chiền, Tăng ni tức nhiên liên lạc truyền bá Phật giáo bị cắt đứt.
Hệ thống truyền bá không còn, nhất định Phật giáo sẽ đi đến tiêu diệt. Như vậy,
chúng ta tin Phật mà trở lại làm tiêu diệt Phật giáo.
Tóm lại hai hạng người trên: Một bên tín ngưỡng nồng nhiệt chỉ biết chùa mà
không biết đến gia đình; một bên chỉ biết gia đình không cần biết đến chùa, hai
thái độ đều mang đến Phật giáo sự hoại diệt. Phật tử chân chánh dè dặt đừng dẫm
dấu hai hạng người này.
2. Tránh quan niệm danh tướng –
Cúng chùa, làm Phật sự ta nên gạt bỏ danh, tướng ra ngoài. Nếu người còn ôm ấp
danh tướng trong lòng ra lo việc đạo, khi bị khai thác trúng chỗ thì làm việc
quay cuồng, cúng dường bất kể, rủi gặp việc bất mãn thì không thèm bước chân
đến chùa có khi phỉ báng Tam Bảo là khác.
Công đức cúng dường Tam Bảo thênh thang vô lượng không nên hạn cuộc nó trên tấm
bảng nhỏ hẹp, trong những lời khen dễ dàng. Phật tử làm việc đạo là vì bảo vệ
Tam Bảo thường còn ở thế gian, vì truyền bá đạo pháp lợi ích chúng sanh không
phải vì danh vì tướng. Cúng Chùa, lo đạo là do lòng chân thành mộ đạo phát tâm
của Phật Tử, đừng vì những lời tán thưởng, vì cho người khác biết mình có đạo
tâm. Đẹp đẽ thay! Những người thầm lặng lo việc đạo. Bỉ ổi nhất, những kẻ ôm
cái ngã to tướng đội lốt hy sinh Phật sự. Thật là Phật tử lo đạo thường thường
mà thật tâm vì đạo, còn hơn những người cả ngày chạy lo Phật sự mà vì danh
tướng của mình. Có khi người ta bỏ được danh lợi ở đời, mà bị kẹt cái danh
trong đạo, thật đáng thương!
3. Tư cách Phật tử chơn chánh đối với Tam Bảo
– Tư cách đúng đắn của Phật tử, khi ra làm việc đạo không nghĩ đến cái ngã của
mình không bao giờ thấy mình là người có công lớn. Không vì tiếng khen mà cố
gắng, không do lời chê mà thối lui. Vui vẻ phấn khởi làm Phật sự chỉ vì Tam Bảo
mà thôi. Khi lo việc đạo do sự đồng ý vui vẻ trong gia đình, không qua mặt
khuất lấp người trong nhà, lúc nào cũng giữ thái độ đường đường chánh chánh.
Kính trọng Tam Bảo là điều kiện cho mọi người quy y hướng về Tam Bảo, không
phải làm sang trọng Tam Bảo mà mọi người đều xa lánh khinh thường sự thịnh suy
còn mất của ngôi Tam Bảo. Người Phật tử chân chánh thấy vui khổ như sự thành
bại trong gia đình mình. Người biết quý kính Tam Bảo là phải thương chúng sanh,
vì chúng sanh là nhân duyên chánh Tam Bảo xuất hiện. Chỉ biết Tam Bảo mà không
biết chúng sanh là một sai lầm lớn của Phật tử, Phật tử cố gắng khêu sáng ngọn
đèn Tam Bảo để chúng sanh thấy mà hướng về.
V.
Phật Tử Tại Gia Phổ Biến Và Linh Động Phật Giáo
Phật tử tại gia ở chung đụng với quần chúng hoàn cảnh sanh sống cũng như họ,
nếu thực hiện được đạo đức mới đáng cho quần chúng chú ý. Nếu mỗi Phật tử tại
gia đều sống gần giống lời Phật dạy, Phật giáo tự nhiên phổ khắp quần chúng.
Bởi vì nhân tình bao giờ cũng xu lợi, muốn khuyên bảo làm việc gì phải thấy lợi
ích hiển nhiên họ mới làm. Chúng ta kêu gọi khuyên nhủ quần chúng hướng về Phật
giáo nhưng điều kiện lợi ích chưa đủ chứng tỏ, đừng hòng quần chúng chịu theo.
Do đó, người Phật tử tại gia phải áp dụng Phật giáo xây dựng gia đình mình được
êm ấm hạnh phúc là chứng cứ xác thực để quần chúng lấy đó làm tiêu chuẩn hướng
về Phật giáo. Hình dáng từ bi, nhẫn nhục, hỷ xả, v.v. đều biểu lộ qua con người
Phật tử, ấy là bài thuyết pháp sống linh động và rất hiệu quả.
Nếu Phật tử chỉ học giáo pháp bằng lý thuyết suông, không làm sống dậy một điểm
nào qua con người mình. Người ấy không phải chơn chánh Phật tử. Vì cá nhân họ
không biết dùng Phật giáo để tu tập, lại là mục tiêu cho quần chúng khinh
thường Phật giáo. Giả sử có những vị giảng sư giảng rất hấp dẫn linh động, đã
khô cổ, khan giọng kêu gọi quần chúng quy y Tam bảo, chỉ gây hào hứng nhất thời
cho quần chúng chứ không mong kết quả. Nếu rải rác bên cạnh quần chúng có các
gia đình đã quy y Phật giáo đôi ba năm mà hành động, cử chỉ, tâm tánh năm này
không khác năm xưa, sự rầy rà, giận dỗi, ghét, oán, thì cũng hệt mọi gia đình
khác. Quần chúng thấy quy y Phật giáo cũng bằng thừa, không lợi ích gì cho gia
đình, cho xã hội, như gia đình anh A, chị B đã quy y Phật giáo nhan nhản trước
mắt kia mà thôi. Đó chính là Phật tử tự đưa Phật giáo đến chỗ vô dụng đối với
quần chúng.
Khi quần chúng thấy sự có mặt của Phật giáo là thừa thãi, thử hỏi Phật giáo còn
có thể sống được không? Ảnh hưởng sâu đậm to tát nhất đối với quần chúng là
hình ảnh cá nhân và gia đình của các Phật tử tại gia. Phật giáo sẽ phổ biến khắp
quần chúng, khi nào Phật tử tại gia biết áp dụng Phật giáo vào nếp sống gia
đình. Phật giáo rất linh động hữu ích khi cá nhân Phật tử biết thực hiện theo
lời Phật dạy.
Trách nhiệm truyền bá Phật giáo trong quần chúng phần lớn do cư sĩ. Cư sĩ là hình
ảnh gần gũi thiết thực nhất với quần chúng cho nên các vị Bồ Tát đa số hiện
thân cư sĩ, như Đức Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù, Phổ hiền, Dược Vương,
v.v. Các Ngài muốn gần gũi thân thiết để hóa độ quần chúng nên phải mang hình
thức giống họ. Tinh thần Đại Thừa Phật giáo là tích cực lợi tha, mang nước từ
bi chan rưới khắp quần chúng nên hình dáng Cư sĩ rất cần thiết thích hợp. Phật
tử tại gia phải ý thức trách vụ quan trọng to tát của mình gắng thực hiện cho
được phần nào nhiệm vụ.
VI.
Trách Vụ Tăng Ni Đối Với Cư Sĩ
Nói thế, hình như tôi tước quyền truyền bá Phật giáo của Tăng ni, đặt hết gánh
nặng lên vai cư sĩ. Sự thật không phải thế, Tăng ni có nhiệm vụ giáo hóa quần
chúng phần lý thuyết. Lý thuyết chỉ là khả năng hướng dẫn lý trí khiến người ta
cảm mến Phật giáo nhưng thực tế sống động phải là hình dáng cư sĩ thường sinh
hoạt bên cạnh họ. Hoàn cảnh, nếp sống Tăng ni là hình ảnh cao đẹp nhưng rất xa
xôi chỉ để làm mục tiêu siêu thoát cho hàng Phật tử hướng về.
Quần chúng bao giờ cũng tránh khổ tìm vui, Phật giáo lúc nào cũng ban vui cứu
khổ nên rất thích hợp nhu cầu cùng khổ. Vui có 3 thứ: vui hiện tại, vui vị lai,
vui giải thoát. Cứu giúp người khỏi cái khổ đói, rách v.v. là ban vui hiện tại.
Khuyên người bỏ ác tu thiện làm những điều phước đức để đời sau hưởng quả báo
an lạc là ban vui vị lai. Chỉ dạy người tu hành đạt được chân lý Tứ đế, Thập
nhị Nhân duyên, v.v. siêu thoát vòng trầm luân, sanh tử là ban vui giải thoát.
Vui hiện tại, vui vị lai, hàng Phật tử có thể ban bố được. Vui giải thoát chỉ
dành riêng giới xuất gia hướng dẫn. Mục đích chính của Phật giáo là cứu người
khỏi cái khổ trầm luân, ban cái vui giải thoát. Ban cái vui hiện tại, vui vị
lai chỉ là bước đầu hướng người vào cửa đạo. Chư Bồ Tát ra tế độ chúng sanh
trước cái vui hiện tại sau mới đưa đến cái vui giải thoát. Hai phái Phật tử
xuất gia và tại gia chung sức tiếp độ chúng sanh, kẻ ban vui hiện tại, người
hướng dẫn đến vui giải thoát, có thế mới đạt được mục đích chung cục của Phật
giáo và mới phổ biến khắp cả chúng sanh.
Tăng ni bao giờ cũng giữ hình ảnh giải thoát. Hình ảnh giải thoát không có
nghĩa là cái đầu hay chiếc áo mà phải là chất vị thấm nhuần trong con người của
Tăng ni. Những lời nói những cử chỉ của Tăng ni đều biểu lộ ảnh hình giải
thoát. Những lúc sống lăn lộn với trần tục đã mệt mỏi trở về chưa nhìn thấy
hình ảnh giải thoát, cảm nhận đức tính Từ Bi, hòa nhã, nghe những lý thuyết cao
siêu của Tăng ni, người cư sĩ nghe lòng nhẹ nhàng an ổn. Cho nên Tăng ni phải
giữ nguyên chất vị giải thoát, thể hiện đức hạnh Từ Bi, hòa nhã và thông đạt
giáo lý. Đừng bao giờ Tăng ni bước sang lãnh vực Cư sĩ, cũng như lãnh vực Cư sĩ
bước lầm vào lãnh vực Tăng ni.
VII.
Kết Luận
Chúng ta không nên đóng khung Phật giáo trong khuôn khổ tín ngưỡng nhỏ hẹp,
khiến quần chúng nhìn vào thấy Phật giáo là cái xác chết khô khan. Chúng ta
phải linh động Phật giáo cả mọi khía cạnh, nguồn sinh lực Phật giáo dồi dào qua
hành động ngôn ngữ của các Phật tử tại gia. Phật tử biết áp dụng phần nào lời
Phật dạy vào cá nhân và gia đình thì Phật Pháp sẽ trường tồn và phát triển mãi
mãi.
Trách nhiệm hoằng hóa Phật giáo là ở Tăng ni, phổ biến Phật giáo linh động
trong quần chúng là do Cư sĩ. Giờ rảnh nói chuyện thân mật trong gia đình, hoặc
đi thăm người láng giềng đau yếu… đều là những buổi thuyết pháp linh động của
Cư sĩ. Cách ăn ở trong nhà, sự đối xử hàng xóm hợp đạo lý ấy là bài thuyết pháp
sống của Phật tử tại gia. Phật tử tại gia thực hiện được nhiệm vụ mình, mới
thật là người hộ đạo chân chánh.
Tuy nhiên, thực hiện toàn vẹn nhiệm vụ là điều rất khó, Phật tử tại gia nên
tiến dần theo khả năng và phương tiện của mình. Làm thế nào sau thời gian quy y
Tam Bảo, mỗi tháng, mỗi năm, người chung quanh nhìn vào ta thấy đã tiến mỗi
ngày mỗi khác hơn trước. Trong Kinh Ưu Bà Tắc mỗi khi dạy một hạnh tu, sau cùng
Đức Phật kết thành câu: “Người tại gia giữ được rất khó vì nhiều nhân duyên
ràng buộc“. Biết là khó, nhưng chúng ta đã quyết tâm tu tiến phải cố gắng
vượt lên, không vì khó mà e dè lui sụt làm mất ý chí hướng thượng của mình./-
Thích
Thanh Từ
Phương
Bối Am
Cuối
xuân Nhâm Dần – 1962
Nguồn:
phatgiaodaichung.com
http://goo.gl/QiEqR Google
blogger Sư Giới Tịnh đọc thêm nhiều tài
liệu.