Thế giới con người chúng ta từ cổ chí kim, đại đa số cứ xoay tròn trong tâm lý được mất, hơn thua, vui buồn và yêu ghét.
Các cặp đối lập này thuộc cá nhân,
mở rộng thêm nữa thì một nhóm người sẽ tranh luận trong chủ trương sau khi chết
là hết hoặc sau khi chết là còn, vượt lên trạng thái tâm lý và chủ trương đó
thì lệ thuộc vào quan niệm vận mệnh hoặc thượng đế tối thượng sáng tạo ra muôn
loài. Hiện tại đứng trên góc độ Phật giáo, chúng ta cùng nhìn nhận lại vấn đề
này.
Nếu chúng ta chỉ dừng lại ở trong
bốn cặp đối lập được mất, hơn thua, vui buồn và yêu ghét thì trong tâm luôn
quay cuồng theo sự thay đổi liên tục của nó. Giả sử hiện tại ta đạt được một
món quà nào đó, thì khi ấy chúng ta rơi vào trạng thái lo lắng làm sao để giữ
mãi mãi và không bao giờ mất đi thứ mà vừa đạt đựơc.
Đồng thời lúc này trong tâm của
chúng ta lại muốn mình hơn người khác và cho họ biết rằng họ đã thua, sau đó
mang cái mình đạt được đi khoe khoang, họ buồn còn mình thì vui. Nếu họ thích
mình thì mình sẽ luôn quan tâm, yêu thương và trân trọng nhưng nếu ngược lại họ
không thích thì lại buồn và oán giận trong lòng. Thế thì mỗi ngày liên tục
trong tâm thức đó, chúng ta cứ rộn ràng xôn xao như một cái chợ vừa nhóm họp.
Tất cả những âm thanh ồn ào, náo
nhiệt hay các sự vật hiện tuợng đang diễn ra trong cái “xóm chợ” kia, tất cả
cảm nhận từ các giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, đều phục vụ cho bốn
cặp đối lập này. Như vậy làm sao ta có thể có được tâm hồn cao thượng để tâm lo
lắng cho những việc lớn hơn, có biết bao nhiêu thứ ngoài kia đang chờ ta đến để
giải quyết, có biết bao nhiêu con người đang đứng chờ ta dang đôi tay ấm áp để
vỗ về an ủi họ trong cõi Ta bà nhiều khổ đau này.
Các hiện tượng tâm lý trên được hiểu
rằng rất bình thường và phổ biến hầu hết trong tất cả chúng sanh, nhưng nó sẽ
tan rã theo khi chúng ta trút hơi thể cuối cùng, thế thì cuộc đời chúng ta chỉ
giới hạn trong các trạng thái đó thôi sao? Để đối trị lại vấn đề này, Phật giáo
dạy chúng ta quán chiếu quan sát sự thay đổi tinh vi của những tâm lý này, để
khỏi bị cuốn trôi vào dòng thác chảy xiết kia, mà phát huy những tâm hồn cao hơn
tốt đẹp hơn.
Thêm bước nữa là khi chúng ta vượt
qua bốn cặp tâm lý này, lại chọn ra hai chủ trương sau khi chết còn tồn tại
(thường kiến) hay sau khi chết thì mất hết (đoạn kiến). Bắt đầu chia ra suy
nghĩ cái nào sẽ quyết định thắng hơn cái nào. Từ đó ta biện luận tranh đoạt,
cuối cùng ta lại quay về với bốn cặp đối lập trước.
Đức Phật chỉ dạy: các duyên mà
thành, nói lên mối quan hệ mật thiết giữa các yếu tố với nhau, chia tất cả các
hiện tượng trên thế giới này thành hai loại như sau: thế giới vật chất (sắc
pháp) và thế giới ý thức (tâm pháp). Nhưng mục đích chủ yếu của việc chia ra đó
là để làm đề mục thiền quán, tìm trong vật chất nhỏ cực vi đó, để thế giới ý
thức nhỏ thay đổi trong thời gian nhỏ nhất đó, không có cái tôi cá nhân tồn tại
và phát hiện được sự ảnh hưởng qua lại của nó mà kết hợp phát triển điểm tích
cực của nó.
Thông thường từ sự thảo luận chết
còn hay mất của kiếp nhân sinh sẽ dẫn đến hai kết quả là quan niệm cho rằng con
người do đấng sáng tạo ra nên một số người hay tin số mệnh. Hai quan điểm này
chiếm số lượng người tin theo rất lớn.
Vì họ chưa thấu hiểu hết mọi sự vật
hiện tượng đang diễn ra xung quanh, không còn cách lựa chọn nào khác họ đành
phải dựa dẫm vào đấng tối thượng nào đó, mang trong tâm trí cảm giác sợ hãi, lo
lắng như một đứa trẻ mới lớn luôn mong muốn đựơc dựa dẫm vào cha mẹ, từ đó
trong hệ ý thức này mà hình thành xây dựng nên một đấng sáng tạo chung, vừa để
phục vụ lòng yếu đuối và vừa là nơi cư trú của tâm hồn họ. Cuối cùng chính bản
thân họ tự nguyện làm kẻ quỵ lụy, trung thành dưới sức mạnh kia như những thần
dân trung thành với quốc vương.
Nếu không tin điều đó thì có người
trong căn bản tâm thức của họ cho là có vận mệnh, cứ tin vào “số phận tôi phải
như vậy!” thì làm sao mà phát huy được chính mình. Phật giáo dạy nhân duyên, do
nhân tạo như vậy, kết hợp với duyên như thế sẽ tạo ra kết quả, đó là điều hiển
nhiên. Nhưng trong quá trình đó có sự thay đổi cải thiện được, chẳng phải là
hoàn toàn thụ động máy móc. Đối với những người sống mà có tư tưởng buông xuôi,
chỉ biết than phân trách phận sao cái vận mệnh mình lại như thế này, mà không
chịu phát huy cái tích cực tiềm ẩn trong mỗi cá nhân.
Hy hữu thay cho nhân loại, Đức Phật
đã nhìn rõ quy luật của cuộc đời, và từ bi chỉ dạy giáo lý duyên khởi, tất cả
đều thay đổi, nếu ai cố chấp không chấp nhận sự thay đổi đó thì bị khổ đau. Và
quán chiếu nó sẽ đạt đến vô ngã niết bàn (trong tâm thức không còn tham lam sân
hận và si mê), sống trong an lạc, từ đó một cách tự nhiên vượt qua các cặp đối
lập, hai loại quan niệm sau khi chết còn hay mất, không còn nô lệ trong hệ ý
thức thần thánh và vận mệnh.
Pháp Bảo
http://goo.gl/QiEqR Google blogger Sư Giới Tịnh đọc thêm nhiều tài liệu.