KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN
Dhammacakkappavattana Sutta (SN 56.11)
Dhammacakkappavattana Sutta (SN 56.11)
1) Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Bàrànasi, tại
Isipatana, chỗ Vườn Nai.
2) Tại đấy, Thế Tôn bảo chúng năm
Tỳ-khưu:
-- Có hai cực đoan này, này các
Tỳ-khưu, một người xuất gia không nên thực hành theo. Thế nào là hai?
3) Một là đắm say trong các dục
(kàmesu), hạ liệt, đê tiện, phàm phu, không xứng bậc Thánh, không liên hệ đến
mục đích. Hai là tự hành khổ mình, khổ đau, không xứng bậc Thánh, không liên hệ
đến mục đích. Tránh xa hai cực đoan này, này các Tỳ-khưu, là con đường Trung
đạo, do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh,
thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
4) Và thế nào là con đường Trung
đạo, này các Tỳ-khưu, do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa
đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn? Chính là con đường Thánh đạo Tám
ngành, tức là: chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng,
chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Đây là con đường trung đạo, này các
Tỳ-khưu, do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh,
thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
*
5) Đây là Thánh đế về Khổ, này các
Tỳ-khưu. Sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu,
não là khổ, oán gặp nhau là khổ, ái biệt ly là khổ, cầu không được là khổ. Tóm
lại, năm thủ uẩn là khổ.
6) Đây là Thánh đế về Khổ tập, này
các Tỳ-khưu, chính là ái này đưa đến tái sinh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu
hỷ lạc chỗ này chỗ kia. Tức là dục ái, hữu ái, phi hữu ái.
7) Đây là Thánh đế về Khổ diệt, này
các Tỳ-khưu, chính là ly tham, đoạn diệt, không có dư tàn khát ái ấy, sự quăng
bỏ, từ bỏ, giải thoát, không có chấp trước.
8) Đây là Thánh đế về Con Đường đưa
đến Khổ diệt, này các Tỳ-khưu, chính là con đường Thánh đạo Tám ngành, tức là
chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh
tấn, chánh niệm, chánh định.
*
9) Đây là Thánh đế về Khổ, này các
Tỳ-khưu, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sinh, trí sinh,
tuệ sinh, minh sinh, quang sinh. Đây là Thánh đế về Khổ cần phải liễu tri,
này các Tỳ-khưu, đối với các pháp, từ trước Ta chưa từng nghe, nhãn sinh, trí
sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh. Đây là Thánh đế về Khổ đã được liễu tri,
này các Tỳ-khưu, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sinh,
trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh.
10) Đây là Thánh đế về Khổ tập, này
các Tỳ-khưu, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sinh, trí
sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh. Đây là Thánh đế về Khổ tập cần phải đoạn
tận, này các Tỳ-khưu, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe,
nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh. Đây là Thánh đế về Khổ
tập đã được đoạn tận, này các Tỳ-khưu, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng
được nghe, nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh.
11) Đây là Thánh đế về Khổ diệt, này
các Tỳ-khưu, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sinh, trí
sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh. Đây là Thánh đế về Khổ diệt cần phải chứng
ngộ, này các Tỳ-khưu, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe,
nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh. Đây là Thánh đế về Khổ
diệt đã được chứng ngộ, này các Tỳ-khưu, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng
được nghe, nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh.
12) Đây là Thánh đế về Con Đường đưa
đến khổ diệt, này các Tỳ-khưu, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được
nghe, nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh. Đây là Thánh đế về
Con Đường đưa đến Khổ diệt cần phải tu tập, này các Tỳ-khưu, đối với các
pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sinh, trí sinh, tuệ sinh, minh sinh,
quang sinh. Đây là Thánh đế về Con Đường đưa đến Khổ diệt đã được tu tập, này
các Tỳ-khưu, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, nhãn sinh, trí
sinh, tuệ sinh, minh sinh, quang sinh.
*
13) Cho đến khi nào, này các
Tỳ-khưu, trong bốn Thánh đế này, với ba chuyển và mười hai hành tướng như vậy,
tri kiến như thật không khéo thanh tịnh ở nơi Ta; thời này các Tỳ-khưu, cho đến
khi ấy, trong thế giới này với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, với quần
chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, Ta không chứng tri đã chánh
giác vô thượng Chánh Đẳng Giác.
14) Và cho đến khi nào, này các
Tỳ-khưu, trong bốn Thánh đến này, với ba chuyển và mười hai hành tướng như vậy,
tri kiến như thật đã được khéo thanh tịnh ở nơi Ta; cho đến khi ấy, này các
Tỳ-khưu, trong thế giới này với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, với quần
chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, Ta mới chứng tri đã chánh
giác vô thượng Chánh Đẳng Giác. Tri kiến khởi lên nơi Ta: "Bất động là tâm
giải thoát của Ta. Đây là đời sống cuối cùng, nay không còn tái sinh nữa".
*
15) Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Chúng năm Tỳ-khưu hoan hỷ, tín thọ lời Phật dạy. Trong khi lời dạy này được
tuyên bố, Tôn giả Kondanna khởi lên pháp nhãn thanh tịnh, không cấu uế như sau:
"Phàm vật gì được tập khởi, tất cả pháp ấy cũng bị đoạn diệt".
16) Và khi Pháp luân này được Thế
Tôn chuyển vận như vậy, chư Thiên cõi đất này lớn tiếng nói lên: "Nay vô
thượng Pháp luân này được Thế Tôn ở Ba-la-nại, chỗ chư Tiên đọa xứ, tại Vườn
Nai, chuyển vận một Pháp luân chưa từng được ai chuyển vận, Sa-môn, Bà-la-môn,
chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên, hay bất cứ một ai ở đời".
17) Sau khi được nghe tiếng chư
Thiên ở cõi đất, Tứ đại Thiên vương thiên lên tiếng nói lên: "Nay vô
thượng Pháp luân này được Thế Tôn ở Ba-la-nại, chỗ chư Tiên đọa xứ, tại Vườn
Nai, chuyển vận một Pháp luân chưa từng được ai chuyển vận, Sa-môn, Bà-la-môn,
chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên hay bất cứ một ai ở đời".
18) Sau khi được nghe tiếng của chư
Thiên ở Tứ đại Thiên vương thiên, thời chư Thiên ở cõi trời Ba mươi ba, chư
Thiên Yàmà (Dạ-ma), chư Thiên Tusità (Đâu-suất-đà), chư Hóa lạc thiên, chư Tha
hóa tự tại thiên, chư Thiên ở Phạm thiên giới lớn tiếng nói lên: "Nay vô
thượng Pháp luân này được Thế Tôn ở Ba-la-nại, chỗ chư Tiên đọa xứ, tại Vườn
Nai, chuyển vận một Pháp luân chưa từng được ai chuyển vận, Sa-môn, Bà-la-môn,
chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên hay bất cứ một ai ở đời".
19) Như vậy, trong sát-na ấy, trong
khoảnh khắc ấy, trong giây phút ấy, tiếng ấy lên đến Phạm thiên giới. Và mười
ngàn thế giới chuyển động, rung động, chuyển động mạnh. Và một hào quang vô
lượng, quảng đại phát chiếu ra ở đời, vượt quá uy lực chư Thiên.
20) Rồi Thế Tôn thốt lên lời cảm
hứng sau đây: "Chắc chắn đã giác hiểu là Kondanna (Kiều-trần-như)! Chắc
chắn đã giác hiểu là Kondanna!"
Như vậy Tôn giả Kondanna được tên là
Annàta Kondanna (A-nhã Kiều-trần-như -- Kiều-trần-như người đã giác hiểu).
KINH VÔ NGÃ TƯỚNG
Anatta-lakkhana Sutta (SN 22.59)
Anatta-lakkhana Sutta (SN 22.59)
Một thời Thế Tôn ở Bàrànasi (Ba-la-nại), tại Isìpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển.
2) Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị
Tỳ-khưu: "Này các Tỳ-khưu". – "Thưa vâng bạch Thế Tôn". Các
Tỳ-khưu ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
3) – Sắc, này các Tỳ-khưu, là vô
ngã. Này các Tỳ-khưu, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có
thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng
sắc của tôi chẳng phải như thế này!"
Và này các Tỳ-khưu, vì sắc là vô
ngã, sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc
của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!"
4) Thọ, này các Tỳ-khưu, là vô ngã.
Này các Tỳ-khưu, nếu thọ là ngã, thời thọ không thể đi đến bệnh hoạn, và có thể
được thọ như sau: "Mong rằng thọ của tôi như thế này! Mong rằng thọ của
tôi chẳng phải như thế này!"
Và này các Tỳ-khưu, vì thọ là vô
ngã, thọ đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các thọ: "Mong rằng thọ
của tôi như thế này! Mong rằng thọ của tôi chẳng phải như thế này!"
5) Tưởng, này các Tỳ-khưu, là vô
ngã. Này các Tỳ-khưu, nếu tưởng là ngã, thời tưởng không thể đi đến bệnh hoạn,
và có thể được tưởng như sau: "Mong rằng tưởng của tôi như thế này! Mong
rằng ưởng của tôi chẳng phải như thế này!"
Và này các Tỳ-khưu, vì tưởng là vô
ngã, tưởng đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các tưởng: "Mong rằng
tưởng của tôi như thế này! Mong rằng tưởng của tôi chẳng phải như thế
này!"
6) Các Hành là vô ngã, này các
Tỳ-khưu, nếu các hành là ngã, thời các hành không thể đi đến bệnh hoạn và có
thể được các hành như sau: "Mong rằng các hành của tôi như thế này! Mong
rằng các hành của tôi chẳng phải như thế này!"
Và này các Tỳ-khưu, vì các hành là
vô ngã, các hành đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các hành: "Mong
rằng các hành của tôi như thế này! Mong rằng các hành của tôi không phải như
thế này!"
7) Thức là vô ngã, này các Tỳ-khưu,
nếu thức là ngã, thời thức không thể đi đến bệnh hoạn, và có thể có được thức
như sau: "Mong rằng thức của tôi như thế này! Mong rằng thức của tôi chẳng
phải như thế này!"
Và này các Tỳ-khưu, vì thức là vô
ngã, thức đi đến bệnh hoạn, và không có thể có được thức: "Mong rằng thức
của tôi như thế này! Mong rằng thức của tôi chẳng phải như thế này!"
8)
– Này các Tỳ-khưu, các Ông nghĩ thế nào? Sắc là thường hay vô thường?
– Là vô thường, bạch Thế Tôn!
– Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
– Là khổ, bạch Thế Tôn.
– Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Này các Tỳ-khưu, các Ông nghĩ thế nào? Sắc là thường hay vô thường?
– Là vô thường, bạch Thế Tôn!
– Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
– Là khổ, bạch Thế Tôn.
– Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
9)
– Này các Tỳ-khưu, các Ông nghĩ thế nào? Thọ là thường hay vô thường?
– Là vô thường, bạch Thế Tôn!
– Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
– Là khổ, bạch Thế Tôn.
– Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Này các Tỳ-khưu, các Ông nghĩ thế nào? Thọ là thường hay vô thường?
– Là vô thường, bạch Thế Tôn!
– Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
– Là khổ, bạch Thế Tôn.
– Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
10)
– Này các Tỳ-khưu, các Ông nghĩ thế nào? Tưởng là thường hay vô thường?
– Là vô thường, bạch Thế Tôn!
– Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
– Là khổ, bạch Thế Tôn.
– Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Này các Tỳ-khưu, các Ông nghĩ thế nào? Tưởng là thường hay vô thường?
– Là vô thường, bạch Thế Tôn!
– Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
– Là khổ, bạch Thế Tôn.
– Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
11)
– Này các Tỳ-khưu, các Ông nghĩ thế nào? các Hành là thường hay vô thường?
– Là vô thường, bạch Thế Tôn!
– Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
– Là khổ, bạch Thế Tôn.
– Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Này các Tỳ-khưu, các Ông nghĩ thế nào? các Hành là thường hay vô thường?
– Là vô thường, bạch Thế Tôn!
– Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
– Là khổ, bạch Thế Tôn.
– Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
12)
– Này các Tỳ-khưu, các Ông nghĩ thế nào? Thức là thường hay vô thường?
– Là vô thường, bạch Thế Tôn.
– Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
– Là khổ, bạch Thế Tôn.
– Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Này các Tỳ-khưu, các Ông nghĩ thế nào? Thức là thường hay vô thường?
– Là vô thường, bạch Thế Tôn.
– Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
– Là khổ, bạch Thế Tôn.
– Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi"?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
13)
– Do vậy, này các Tỳ-khưu, phàm sắc gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả sắc cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
– Do vậy, này các Tỳ-khưu, phàm sắc gì quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả sắc cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
Phàm thọ gì quá khứ, vị lai, hiện
tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả sắc
cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của
tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
Phàm tưởng gì quá khứ, vị lai, hiện
tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả sắc
cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của
tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
Phàm các hành gì quá khứ, vị lai,
hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả
sắc cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải
của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
Phàm thức gì quá khứ, vị lai, hiện
tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả thức
cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của
tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
14) Thấy vậy, này các Tỳ-khưu, bậc
Đa văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc, yếm ly đối với thọ, yếm ly đối với
tưởng, yếm y đối với các hành, yếm ly đối với thức. Do yếm ly, vị ấy ly tham.
Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên: "Ta đã
được giải thoát". Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành,
những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".
15) Thế Tôn thuyết như vậy. Nhóm năm
vị Tỳ-khưu hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy. Trong khi lời dạy này được nói
lên, tâm của nhóm năm vị Tỳ-khưu được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có
chấp thủ.
KINH LỬA CHÁY
Aditta-pariyaya Sutta (SN 35.28)
Aditta-pariyaya Sutta (SN 35.28)
Vài tháng sau khi giác ngộ, Đức Phật
giảng bài pháp nầy cho 1,000 tu sĩ theo phái thờ thần lửa đồi Gayasisa. Qua lối
giảng siêu việt của Ngài, Đức Phật đã dùng ví dụ về lửa cháy (lửa tham, sân,
si) để dạy về tâm xả ly đối với các cảm thọ qua sáu căn. Sau khi nghe bài giảng
nầy, toàn thể thính chúng đắc quả A-la-hán.
*
1) Một thời Thế Tôn trú ở Gàya, tại
Gàyasìsa cùng với một ngàn Tỳ-khưu.
2) Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỳ-khưu:
–Tất cả, này các Tỳ-khưu, đều bị bốc cháy. Và này các Tỳ-khưu, tất cả cái gì đều bị bốc cháy?
–Tất cả, này các Tỳ-khưu, đều bị bốc cháy. Và này các Tỳ-khưu, tất cả cái gì đều bị bốc cháy?
3) Mắt, này các Tỳ-khưu, bị bốc
cháy. Các sắc bị bốc cháy. Nhãn thức bị bốc cháy. Nhãn xúc bị bốc cháy. Do
duyên nhãn xúc nên khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; cảm thọ
ấy bị bốc cháy. Bị bốc cháy bởi cái gì? Bị bốc cháy bởi lửa tham, lửa sân, lửa
si. Ta nói rằng bị bốc cháy bởi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
4) Tai, này các Tỳ-khưu, bị bốc
cháy. Các thinh bị bốc cháy. Nhĩ thức bị bốc cháy. Nhĩ xúc bị bốc cháy. Do
duyên nhĩ xúc nên khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy
bị bốc cháy. Bị bốc cháy bởi cái gì? Bị bốc cháy bởi lửa tham, lửa sân, lửa si.
Ta nói rằng bị bốc cháy bởi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
5) Mũi, này các Tỳ-khưu, bị bốc
cháy. Các hương bị bốc cháy. Tỷ thức bị bốc cháy. Tỷ xúc bị bốc cháy. Do duyên
tỷ xúc nên khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy bị bốc
cháy. Bị bốc cháy bởi cái gì? Bị bốc cháy bởi lửa tham, lửa sân, lửa si. Ta nói
rằng bị bốc cháy bởi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
6) Lưỡi bị bốc cháy. Các vị bị bốc
cháy. Thiệt thức bị bốc cháy. Thiệt xúc bị bốc cháy. Do duyên thiệt xúc nên
khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy bị bốc cháy. Bị
bốc cháy bởi cái gì? Bị bốc cháy bởi lửa tham, lửa sân, lửa si. Ta nói rằng bị
bốc cháy bởi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
7) Thân bị bốc cháy. Các xúc bị bốc
cháy. Thân thức bị bốc cháy. Thân xúc bị bốc cháy. Do duyên thân xúc nên khởi
lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy bị bốc cháy. Bị bốc
cháy bởi cái gì? Bị bốc cháy bởi lửa tham, lửa sân, lửa si. Ta nói rằng bị bốc
cháy bởi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
8) Ý bị bốc cháy. Các pháp bị bốc
cháy. Ý thức bị bốc cháy. Ý xúc bị bốc cháy. Do duyên thân xúc nên khởi lên cảm
thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy bị bốc cháy. Bị bốc cháy bởi
cái gì? Bị bốc cháy bởi lửa tham, lửa sân, lửa si. Ta nói rằng bị bốc cháy bởi
sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
9) Thấy vậy, này các Tỳ-khưu, vị Đa
văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với mắt, nhàm chán đối với các sắc, nhàm chán đối
với nhãn thức, nhàm chán đối với nhãn xúc. Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ
gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; vị ấy nhàm chán đối với cảm thọ ấy.
Nhàm chán đối với tai, nhàm chán đối
với các thinh, nhàm chán đối với nhĩ thức, nhàm chán đối với nhĩ xúc. Do duyên
nhĩ xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; vị ấy nhàm chán đối
với cảm thọ ấy.
Nhàm chán đối với mũi, nhàm chán đối
với các hương, nhàm chán đối với tỷ thức, nhàm chán đối với tỷ xúc. Do duyên tỷ
xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; vị ấy nhàm chán đối với
cảm thọ ấy.
Nhàm chán đối với lưỡi, nhàm chán
đối với các vị, nhàm chán đối với thiệt thức, nhàm chán đối với thiệt xúc. Do
duyên thiệt xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; vị ấy nhàm
chán đối với cảm thọ ấy.
Nhàm chán đối với thân, nhàm chán
đối với các xúc, nhàm chán đối với thân thức, nhàm chán đối với thân xúc. Do
duyên thân xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; vị ấy nhàm
chán đối với cảm thọ ấy.
Nhàm chán đối với ý, nhàm chán đối
với các pháp, nhàm chán đối với ý thức, nhàm chán đối với ý xúc. Do duyên ý xúc
khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; vị ấy nhàm chán đối với cảm
thọ ấy.
Do nhàm chán nên vị ấy ly tham. Do
ly tham nên vị ấy được giải thoát. Trong sự giải thoát, khởi lên trí hiểu biết
rằng: "Ta đã giải thoát". Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh
đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui với trạng thái này
nữa".
10) Thế Tôn thuyết như vậy. Các
Tỳ-khưu ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
11) Và trong khi lời giảng giải này
được nói lên, tâm của một ngàn Tỳ-khưu ấy được giải thoát khỏi các lậu hoặc,
không có chấp thủ.