Vài nét về Miến Điện
Miến điện có thể gọi là Burma, hay Union Myanmar, còn gọi tắt là
Myanmar, hay gọi chung là Burmese Myanmar. Đầy đủ hơn nữa là Pyidaungzu Myanmar
Naingngandaw, tức là xứ sở nằm dọc theo bờ Đông Tây của vịnh Bengal và biển
Andaman thuộc Đông Nam Châu Á.
Miến điện với dân số 45 triệu người trên một diện tích 676.552 kí
lô mét vuông (261,218 spuare miles) bao gồm nhiều sắc tộc: 65% là người Miến
điện, 10% người Chan, 7% người Karen, và 4% gồm người Rakhine, Chin, Kachin,
Mon, Chinese, Indian, Assam. Các ngôn ngữ thường được sử dụng ở Miến gồm có:
tiếng Burmese, Karen, Chin, Shan và Kachin. Miến điện là xứ sở Phật giáo theo
truyền thống Theravàda với tỷ lệ 87% dân số theo Phật giáo, 5% theo Thiên chúa
giáo, 4% là Hồi giáo, và 3% thuộc tín ngưỡng khác. Đa số dân chúng là Phật tử
thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến điện mệnh danh xứ quốc giáo
với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP
HÀNH (Patipattidhamma).
Chư Tăng hay Ni chọn theo PHÁP HÀNH tức là hành trì theo
Giới-Định-Tuệ (Patipatti), các vị sẽ tu tập nghiêm mật trong các trung tâm
thiền với sự tổ chức khá chặt chẻ và rất phong phú ở Miến điện. Hằng ngày theo
thời khóa hành Thiền từ 3.50 sáng đến 9.30 tối (có nhiều trung tâm hành thiền
nhiều giờ hơn nữa). Trung tâm Thiền đón nhận tất cả mọi yogi (người hành thiền)
có tinh thần tu tập không phân biệt tuổi tác, quốc gia, Tăng hay Ni, tu sĩ hay
cư sĩ. Tuy nhiên mỗi thành phần có khu cư trú riêng biệt. Tức là có khu giành
cho chư tăng, khu riêng cho chư Ni, khu của cư sĩ nam và khu cho cư sĩ nữ. Chư
Tăng và nam cư sĩ hành thiền chung trong một thiền đường và có một Thiền đường
khác dành riêng cho chư Ni và nữ cư sĩ.
Mỗi trung tâm Thiền do một vị Thiền sư
đảm nhiệm để hướng dẫn những yogi theo đường lối Thiền mà vị ấy đã thành tựu.
Tùy theo sự sắp xếp của mỗi Thiền viện, lần lượt các yogi đều có giờ trình
Thiền với các vị Thầy, hoặc mỗi ngày, hoặc 2 ngày, hoặc 1 tuần một lần. Các
yogi trình lên sự thực hành và nêu lên những thắc mắc của mình trong khi hành
trì để vị Thầy trả lời và dạy thêm phương pháp để yogi dần dần đạt được kết
quả. Hằng ngày đến giờ điểm tâm và cơm trưa, sau khi nghe tiếng kẻng, tất cả
yogi đều sắp hàng, mang bát đến nơi nhận thức ăn giống như hình thức đi khất
thực. Các trung tâm Thiền thường được xây dựng chắc chắn bằng bê tông đúc với
những dãy nhà san sát nhau. Trái lại, Rừng Thiền với những cốc gỗ đơn sơ xây
rải rác trong khu rừng thưa tạo nên một bầu không khí thoải mái thích hợp cho
những vị thích phong cảnh thiên nhiên. Chủ trương chung của các Thiền viện là
dành mọi ưu tiên cho người ngoại quốc vì các Thiền sư muốn truyền bá các phương
pháp Thiền Samatha và Vipassana đến các nước trên thế giới ngõ hầu đem an lạc,
thanh tịnh đến chúng sinh khắp toàn cầu.
Chư Tăng theo PHÁP HỌC, tức là chuyên học Tam Tạng Kinh điển Pàli.
Có những tu viện tổ chức đào tạo chư tăng từ lúc còn nhỏ. Các vị không học một
môn nào khác ngoài Tam Tạng Kinh điển. Cứ như vậy các vị bắt đầu học thuộc lòng
từ Tạng Kinh qua đến Tạng Luật và Tạng Luận. Có những khóa thi tổ chức hàng năm
để chọn xem vị nào đã thuộc nằm lòng Tam Tạng Kinh điển trước ban giám khảo.
Nơi thi diễn ra trong một tòa nhà rất rộng lớn trông như một lâu đài, nơi ngồi
của giám khảo được bố trí rất uy nghiêm nên thí sinh vào đó như vào trước bệ
rồng của Vua vậy. Nếu ai không đủ nghị lực, bình tĩnh và không thuộc nằm lòng
kỷ càng thì bài vở dễ chạy tán loạn lắm. Một lần thi vị thí sinh sẽ đọc một
Tạng Kinh, sau đó một thời gian sẽ thi đọc Tạng Luật, rồi vài năm sau đó sẽ thi
tiếp Tạng Luận. Hiện nay tại Miến điện đã có 7 vị được công nhận thuộc nằm lòng
Tam Tạng, các vị nầy được cả nước kính nể và được mọi ưu ái của nhà nước cũng
như hàng Phật tử về mọi phương diện. Một vị Tăng hay Ni Miến điện theo pháp
học, được gọi là có căn bản phải đậu được bằng Dhammacariya, và thường phải học
từ 10 đến 12 năm mới thi nổi. Nghĩa là cũng trải qua từng cấp như cơ bản, trung
cấp rồi cao cấp nhưng chỉ chuyên về Tam Tạng Pàli do vậy bằng nầy được các
trường đại học công nhận tương đương với bằng B. A. Phật học.
Miến điện là quốc gia được vinh dự tổ chức đại hội kiết tập Kinh
điển hai lần liên tiếp: Lần thứ 5 ở Mandalay, và lần thứ 6 tại Yangon.
Đại hội kiết tập Kinh điển lần thứ 5được tổ chức tại Mandalay vào
năm 1871 hay Phật lịch 2414 dưới thời Vua Mindon. Hòa Thượng Jàgara chủ tọa
buổi kiết tập với sự tham gia của 2400 Tăng sĩ Miến trí thức. Sau khi tụng đọc
Tam Tạng bằng Pàli, toàn bộ Tam Tạng được ghi chép ra mẫu tự Pàli Miến trên 729
phiến đá cẩm thạch trong 5 tháng. Sự ghi chép nầy dưới sự chủ đạo rất thận
trọng của những vị Hòa Thượng học giả Miến điện. Mỗi phiến đá Tam Tạng được tôn
trí trong một tháp được bảo vệ cẩn thận tại chân đồi Mandalay (Mandalay Hills).
Hiện nay công trình nầy trở thành một tuyệt tác, được xem như một thư viện
thiên nhiên to nhất thế giới và nếu ráp lại toàn bộ, những phiến đá nầy sẽ trở
thành quyển sách lớn nhất thế giới.
Đại hội kiết tập Kinh điển lần thứ 6 diễn ra tại Yangon vào năm
1954 dưới sự chủ tọa của Thượng tọa Revata, đặc biệt lần nầy đại hội được tổ
chức với sự tham dự của 2500 chư tăng các nước: India, Sri lanka, Nepal,
Campodia, Thailand, Laos, Pakistan, Tibet, Korea, China, Japan, và một số nước
thuộc châu Á cũng được mời tham dự.
Miến điện là xứ sở với số lượng đền đài chùa tháp đồ sộ và rộng
lớn khắp nơi đầy tích cách thiêng liêng huyền bí. Như Tháp Kyaktiyo, nơi đây có
một khối đá to nằm chồng lên một hòn đá nhỏ hơn nhưng không hề dính sát nhau,
có thể kéo một sợi dây xuyên qua dễ dàng, và khi khách hành hương đưa tay vào
khoảng cách giữa hai khối đá, họ cảm nhận khối đá ấy đang lung lay. Truyền
thuyết cho rằng khi xưa có một vị Tăng may mắn giữ được một sợi tóc xá lợi
Phật, vị ấy vô cùng trân quý. Khi biết mình sắp mệnh chung, vị ấy lo sợ khi
mình mất đi không ai gìn giữ xá lợi quý báu ấy, Đế Thích biết tâm vị ấy như vậy
nên cho khối đá hiện ra và an trí xá lợi tóc vào đó để bảo vệ. Ngày nay, khối
đá ấy được phủ toàn vàng ròng vẫn an nhiên đứng trong trời đất như chứng tỏ sự
linh thiêng huyền bí làm cho khách hành hương không khỏi ngạc nhiên và kính
ngưỡng.
Miến điện lại có thành phố cổ Bagan với hàng ngàn ngôi tháp đủ
kiểu đủ dạng rất sắc xảo về nghệ thuật, có nhiều Chùa Tháp to lớn như: Chùa
Shwezigon, tháp Manuha, tháp Thatbyinnyu, … Nhưng bây giờ, thành phố nầy hoàn
toàn hoang vắng vì không còn dân chúng cư ngụ nơi đó. Thỉnh thoảng vài đoàn
hành hương đến thăm viếng vào ban ngày rồi lại ra đi. Thật ngạc nhiên với một
thành phố đầy kiến trúc công phu như thế chắc chắn là đã trải qua một thời sung
túc phồn thịnh mà ngày nay trở nên tuyệt nhiên vắng lặng không dân cư.
Lại có một nơi gần Mandalay, có một khu đất được an trí 9,000
tượng Phật ngồi dưới nhiều cội cây bồ đề. Ngoài ra còn một số tượng Phật to hơn
so với những tượng bên trong được đặt thành một dãy dài hai bên trước khi vào
cổng. Và ở vùng đồi Sagaing Hills có hơn 900 ngôi Chùa với hơn 9.000 Tăng Ni,
nơi đây số lượng tu sĩ đông hơn so với dân chúng sống xung quanh.
Hang động ở Miến không thể kể xiết: Hang Badalin với những bức họa
lớn về câu chuyện tiền thân của Đức Phật ở Taungyi, hang kiết tập Kinh điển lần
thứ 6 ở Yangon, hang Kawgun với những tượng Phật trong các hộc tường ở Hpa-an,
hang Leidy Sayadaw ở gần Mandalay… và nhiều hơn nữa những hang động của các
Thiền sư ẩn sâu trong rừng hay vút tận trên những núi đồi cao.
Có Thánh Tăng ẩn dật giữa rừng sâu
Có Thánh Tăng được van vái cúng cầu
Và cũng có những Thánh Tăng
Được dệt thêu từ u linh huyền thoại. (Minh Đức Triều Tâm Ảnh)
Khắp Miến điện, chúng ta luôn gặp Đền Đài, Chùa Tháp và tuợng Phật
hai bên đường như hằng nhắc nhở dân chúng sống an lạc thiện lành trong ánh từ
bi của chư Phật. Ngay trước cổng Chùa hay Tháp, thường có hai tượng sư tử đặt
hai bên trông rất bệ vệ. Tương truyền rằng, Vua Sihabhahu vốn là con của một
con sư tử và một công chúa. Khi biết rõ cha mình là sư tử, tức là một con thú,
nhà Vua vô cùng xấu hổ. Một lần nọ khi sư tử cha về lại kinh đô thăm vợ và con.
Nhà Vua đã bắn tên giết cha nhưng bao nhiêu mũi tên đi ngang qua mặt sư tử đều
biến thành những đóa hoa vì lòng thương con vô bờ bến của sư tử.
Tuy vậy, nhà
Vua vẫn cố ý bắn liên tục cho đến lúc sư tử cha bỗng trở nên giận dữ tức thời
sư tử liền trúng tên và gục chết. Sau đó nhà Vua hối hận vì đã giết cha nhưng
vì sự xấu hổ có người cha là thú nên không hề dám nói với một ai. Ngài cho đặt
tượng sư tử trước Chùa để thờ cha, nhưng mọi người nghĩ rằng nhà Vua muốn đặt
tượng cúng dường trước ngôi Tam Bảo. Từ đó tượng Sư tử luôn xuất hiện truớc
cổng các Chùa là vậy. Ngoài ra sư tử cũng là biểu tượng của sức mạnh, oai
nghiêm và hùng dũng. Như đức Phật thường khuyên nhắc các đệ tử Ngài nên rống
lên tiếng rống sư tử, vì Sư tử là vua các loài thú, tiếng rống của sư tử làm
khiếp vía các loài sinh thú. Cũng vậy, lời thuyết giảng giáo pháp của Như Lai
và các đệ tử Ngài có khả năng hàng phục trời, người và ngoại đạo.
Tượng Phật ở
Miến thường được đúc rất to điển hình tại Yangon có ngôi chùa tên Chaukhtatkyee
(Relining Buddha) bên trong đúc một tượng Phật nằm với kích thước như sau: dài
54,88m, cao 16m, chiều dài của gương mặt 6,86m, tai 4,57m, mắt 1,14m, chân mày
2,29m, lông mi 2,29m, mĩu 2,29m, cổ 2,29m, chiều dài từ vai đến ngực 14,48m, từ
ngực đến đầu gối 14,48m, từ đầu gối đến chân 14,48m, từ khuỷu tay đến ngón tay
13,71m, ngón tay út 3,05m, lòng bàn chân 7,77m, ngón chân cái 1,83m, lòng bàn
tay 6,71m. Ở Mandalay lại có Kyauktawgyi là tượng Phật to lớn được khắc từ một
khối đá thạch cao tuyết hoa. Đến tượng Phật ngồi của Umin Thonze ở Sagaing
Hills. Đặc biệt tượng Phật ngồi ở Bago vốn dĩ? to rồi mà dân chúng cứ hàng ngày
đem vàng vào dát vào khắp tượng chỉ chừa gương mặt mà thôi nên toàn thân tượng
bây giờ nhìn như đang bị thổi phình ra giống bong bóng vàng vậy.Và cũng tại
Yangon có tượng Phật đang được đúc từ một khối đá cẩm thạch trắng to, có thể
xem đây là tượng Phật to nhất nước Miến về tính chất thiên nhiên của khối đá
quý ấy.
Yangon là thủ đô của Miến điện, cũng được gọi là Rangoon có nghĩa
là ‘chấm dứt sự xung đột’ do Vua Alaungpaya đặt tên sau khi tiến vào miền Nam
Myanmar vào giữa năm 1750. Bắt đầu từ năm 1989, chính phủ Miến điện đổi lại là
Yangon cho phù hợp trong việc phát âm của ngôn ngữ Miến. Yangon, với dân số
2.513.023 người trên một diện tích 199 kí lô mét vuông (77 square miles), thuộc
miền nam của Miến điện, nằm về phía tây hay bên trái sông Yangoon hay sông
Hlaing chảy dài 25 miles (40 km) là sông lớn nhất nước Miến.
Tại Yangon có nhiều chùa tháp nổi tiếng như: Tháp Shwedagon, Tháp
Kaba Aye (World Peace), Tháp Sule, Tháp Botataung, Nga Htat Kyee,
Chaukhtatkyee, Shwe Daw (Tháp xá lợi răng), …
Nổi bật hơn hết là Tháp Shwedagon được phủ toàn vàng ròng từ đỉnh
đến chân, với chiều cao 326 feet (99 mét) trên một ngọn đồi cao 168 feet (51
mét). Tháp luôn sửng sửng giữa thủ đô Yangon, ban ngày dưới ánh mặt trời toàn
Tháp phản chiếu màu óng ả của vàng ròng như trả lời những ai hỏi tại sao Miến
điện còn có tên là Suvannabhumi (đất vàng). Về đêm, Tháp lại lóng lánh màu bạc
dưới ánh trăng làm mát dịu những tấm lòng thành tín đang hướng về Tháp nguyện
cầu.
Tháp Shwedagon là trái tim của nước Miến, là biểu tượng tiêu biểu
khi nói về Miến điện và đã trở thành điểm hành hương từ bao thế kỷ vì nơi đây
tôn thờ 8 sợi tóc xá lợi Phật. Trước khi Tháp nầy được những vị Vua người tộc
Mon xây dựng vào thế kỷ 15, xá lợi tóc được thờ tại Shwebotataung (Buddha First
Sacred Hair Relic temple), sau khi được hoàn thành, xá lợi tóc được rước về
Tháp Shwedagon cho đến ngày nay. Khuôn viên Tháp rất rộng lớn, có 4 lối vào
Tháp với bốn cổng và 4 dãy cầu thang rất lớn có cùng một kiến trúc cho nên đến
đây lần đầu khách hành hương rất dễ bị lạc lối ra vì sự rộng lớn của Tháp. Nếu ai
không thể đi bộ lên cầu thang, thì có thể đi bằng thang máy đưa lên đến tận
Tháp.
Tháp Shwedagon được bố trí ngay chính giữa đồi, chung quanh dưới
chân Tháp là nhiều Tháp nhỏ hơn bao quanh. Bên trong các Tháp được tôn trí
nhiều tượng Phật dát vàng, sơn nâu, bằng gỗ, bằng thạch cao, bằng đá cẩm thạch…
Có những Tháp chạm rồng, Tháp phết vàng, Tháp bằng đá quý… Lại có những Tháp
trang trí toàn bằng những mảnh gương nhỏ được xếp đủ kiểu, nhiều màu phản chiếu
lấp lánh dưới ánh sáng trông nguy nga tráng lệ tựa các cung điện cõi trời như
để giới thiệu khách hành hương nghệ thuật chạm khắc gương của người Miến. Bước
vào mỗi cổng Tháp, khách hành hương có thể hài lòng với những cửa hàng Phật cụ
và quà kỷ niệm cho chuyến hành hương Miến điện. Lại có một bảo tàng viện nằm
vào một góc của khuôn viên Tháp. Bên trong trưng bày đủ loại tượng Phật, tiền tệ
các nước, đồ mỹ nghệ cổ, trang sức, đồ dùng cá nhân của Vua chúa…, đặc biệt là
nguyên đỉnh Tháp cũ còn lưu giữ nơi đây như nòng sắt cũ của Tháp, vô số trang
sức ngọc ngà đã được dâng cúng trên đỉnh Tháp cũ nầy.
Viếng thăm Tháp vào mỗi buổi trong ngày khách hành hương sẽ có
những cảm nhận khác nhau. Vào Tháp buổi trưa có thể ngắm được màu vàng nguyên
thủy của Tháp dưới ánh mặt trời và thăm được bảo tàng viện vì giờ mở cửa từ
10.30 đến 17 giờ nhưng khách hành hương sẽ bị nóng chân vì theo thông lệ chung ở
Miến điện khi bước vào cổng bất cứ Chùa Tháp nào đều phải đi chân để tỏ lòng
tôn kính, và cũng không được mang vớ. Nếu hành hương vào mùa nóng, chắc chắn
một số vị chưa quen với việc đi chân trần trên nền đá nóng sẽ phải vừa đi vừa
nhảy nai do vậy cũng khó mà chiêm ngưỡng hay thưởng thức cảnh trí chung quanh.
Viếng Tháp vào buổi chiều thật là thú vị với những luồng gió thổi
lồng lộng xung quanh vì Tháp được tọa lạc trên một ngọn đồi. Vào giờ nầy thì
đông đảo khách hành hương bản xứ và ngoại quốc. Hương trầm, khói nhang, bông
hoa, đèn nến được bày biện khắp các Tháp, người vào kẻ ra tấp nập thay nhau gõ
chuông, tụng kinh, lễ bái, cầu nguyện… Có người vào Tháp để chiêm ngưỡng và
đảnh lễ xá lợi. Cũng có người vào tháp như khách du lịch viếng thăm cảnh lạ. Và
có người vào đây đi quanh Tháp như phương tiện tập thể dục. Đặc biệt là cảnh
‘dập dìu tài tử giai nhân’, các nam thanh nữ tú cũng hẹn hò nhau nơi đây để
khấn nguyện vái van… Tháp như là điểm để mọi người hướng về trong cuộc sống tâm
linh; buồn, vui, thi cử, bệnh hoạn, làm ăn buôn bán, tình duyên, cưới gả, ma
chay, xây nhà, mua đất; … bất cứ việc gì mọi người bản xứ đều đặt vào Tháp niềm
tin để được thành tựu. Do vậy có một nhà thơ đã viết như sau:
Nơi đây,
Tám sợi tóc Phật gần ba ngàn năm
Chưa cỗi
Vẫn biếc chồi non
Vẫn cháy rực trầm hương
Thắp sáng điện đài linh thiêng
Với vô lượng niềm tin
Vừa cao sang, vừa thánh thần mông muội! (Minh Đức Triều Tâm Ảnh)
Vào Tháp buổi rạng đông là thời điểm an tịnh vắng lặng để có thể
chiêm ngưỡng sự trang nghiêm, hùng vĩ và nên thơ của ngôi Tháp. Khi mặt trời
chưa lên, khách hành hương vẫn còn được trông thấy màu bạc lấp lánh dìu dịu tỏa
ra từ ngôi Tháp cùng với bầu không khí tinh sương dễ đưa đến trạng thái tâm
lắng dịu, do vậy nhiều vị đã đến hành Thiền quanh Tháp vào thời gian nầy vì rất
ít người qua lại và nếu có người đi ngang qua đi nữa, các yogi đều được tôn
trọng.
Khi mặt trời lố dạng, Tháp từ màu bạc trắng sáng chuyển sang ửng hồng và
dần dần đổi màu vàng cam từ nhạt đến sáng rực theo ánh sáng mặt trời trông
tuyệt đẹp. Khung cảnh ấy hòa với tiếng chuông vàng trên đỉnh Tháp thỉnh thoảng
rung rung theo gió với âm thanh trong vắt vang xa. Thêm nữa, hương hoa lan, hoa
sứ, hoa hồng và hoa lài được dâng cúng trong các Tháp tỏa ra nhè nhẹ quyện vào
không khí tinh khiết buổi bình minh tạo nên cảm giác lâng lâng khó tả. Ngoài
cổng Tháp từng đàn bồ câu sà xuống nhặt những hạt ngô được rải ra trên đất diễn
ra cảnh tượng trông thật tự do và thanh bình.
Nhìn chung người dân Miến điện rất tín tâm, hiền hòa và đầy chân
chất qua sinh hoạt, trang phục và trang điểm. Tất cả dân Miến dù nam giới hay
nữ giới đều giữ truyền thống quấn một miếng vải thay cho quần dài (có thể gọi
là váy) cho dù ở công sở hay các buổi lễ quan trọng. Phụ nữ Miến thường quệt
mặt như râu mèo bằng chất bột lấy ra từ cây Tha Na Kha thay cho sự trang điểm
bằng phấn thoa mặt trông như các dân tộc rừng núi vậy. Được biết rằng chất bột
nầy rất tốt có thể bảo vệ da khỏi bị ảnh hưởng nắng vào mùa nóng và giữ cho da
không khô vào mùa lạnh. Quý bà quý cô quệt hai bệt hai bên má và dửng dưng đi
ngoài đường phố khiến nhà thơ bất chợt thốt lên cảm giác của mình như sau:
Ta dạo bước giữa hư vô thời đại
Bắt gặp những bộ lạc
Đã mất tích từ thời khuyết sử
Hồn nhiên bôi mặt vẻ mày
Hồn nhiên cầu nguyện thần linh
Với trái tim vô cùng tinh khiết! (Minh Đức Triều Tâm Ảnh)
Lại có vị đùa rằng nên thêm một câu nữa trong đoạn thơ trên như
sau: “Hồn nhiên váy tung xòe trước gió” để diễn tả thêm sự mộc mạc của người
dân Miến.
Tuy bận rộn trong cuộc sống, Phật tử Miến điện vẫn giữ thông lệ đến
Chùa để được chư Tăng truyền dạy và tụng đọc lại Tam Quy, Ngũ Giới mỗi nửa
tháng do vậy luôn có sự nhắc nhở và khuyến khích quý vị thực hiện bổn phận
người Phật tử tại gia trong sinh hoạt hàng ngày. Truyền thống khất thực vẫn
được chư tăng theo pháp học hành trì nơi xứ sở nầy trong sự ủng hộ nhiệt tâm
của hàng Phật tử. Do vì theo truyền thống Theravada, Ni giới Miến điện chỉ thọ
10 giới, không được thọ Bhikkhuni như Ni giới Mahayana nên Ni giới ở đây không
được kính trọng cúng dường như chư Tăng. Thay vì chư Tăng đi khất thực hàng
ngày để hóa duyên, chư Ni theo pháp học hằng tháng 4 ngày phải cầm một bát nhôm
nhỏ đi xin tiền gọi là ‘sàn khan’ để có đủ tiền đóng chi phí ăn ở cho Ni Viện
hàng tháng. Phải nói rằng chư Ni không có vị trí trong Tăng đoàn hay trong giáo
hội Phật giáo tại Miến điện. Ni giới Sri Lanka cũng thuộc truyền thống
Theravada nhưng đã phục hồi được Tỳ Kheo Ni với sự hổ trợ của Ni giới Đại Hàn
và giới đàn Tỳ Kheo Ni nầy được tổ chức hàng năm tại Sri Lanka. Hy vọng rằng,
trong nhịp tiến của Ni giới trên thế giới hiện nay, Ni giới Miến điện sẽ có cơ
hội để phát triển hơn nữa về trình độ, khả năng và kiến thức cùng phấn đấu thọ
nhận giới bổn Tỳ Kheo Ni để chứng tỏ sự hiện hữu và sự hữu ích của mình đối với
Tăng đoàn và xã hội ngõ hầu xứng danh là Thích Tử Như lai.
TN Liên Tường
nguồn: http://www.tuvienquangduc.com.au/