Sunday, June 28, 2015

Khổ


Ðức-Phật sanh ra là Thái-tử Siddhattha (Sĩ-Ðạt-Ta hay Tất-Ðạt-Ða), một người như tất cả mọi người. Vào năm 35 tuổi, Ngài khước từ cuộc sống trên nhung lụa của cung vàng điện ngọc và trở thành Ðạo-sĩ Gotama (Cồ-Ðàm). Sau sáu năm theo học với các vị đạo-sư trứ danh thời bấy giờ và thực hành các pháp khổ hạnh đến mức cùng cực mà không thâu đạt được kết quả mong muốn, Ðạo-sĩ Gotama tìm đến một nơi vắng vẻ tại Uruvela (Ưu Lâu Tần Loa), giữa khu rừng tươi tốt, bên cạnh một giòng sông ngoạn mục, rồi ngày đêm trầm tư mặc niệm, gom tâm quan sát từng yếu tố vật chất và tinh thần của chính bản thân mình Ngài tìm ra Ánh sáng Chân-Lý, trở thành Phật, bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác. Từ đó, trong 45 năm trường Ðức-Phật Gotama đi cùng khắp miền Bắc xứ Ấn-Ðộ, từ làng này đến làng khác, từ tỉnh nọ đến tỉnh kia, đi trên các con đường lớn và các nẻo nhỏ, để mang lại cho nhân loại bức thông điệp hòa bình và an tịnh, bủa rộng vòng hào quang từ-bi và trí tuệ vô-lượng vô-biên của Ngài bao trùm tất cả sanh linh. Tôn giáo do Ngài sáng lập được gọi là Phật-Giáo.
 
Như vậy, Phật-Giáo xuất phát từ nhân sinh, hướng về nhân sinh, nhằm phục vụ nhân sinh.
Ðức-Phật không đặt nền tảng giáo lý trên sự sợ sệt một oai lực huyền bí siêu thế nào, cũng không dạy hàng tín đồ phải mong nhờ sự giúp đỡ nào từ bên ngoài, hay trông cậy nơi sự cứu rỗi nào từ trên ban xuống. Ngài dạy chẳng nên vội tin chắc một điều gì là chân lý chỉ vì điều ấy đã được ghi chép trong kinh sách, hay vì điều ấy do một nhân vật quan trọng hoặc có uy quyền truyền dạy, chí đến lời của chính Ngài, cũng không nên vội vã tin càng mà phải luôn luôn dùng lý trí phân tách, quan sát, xét đoán tỷ mỷ, tận tường, phân biệt đâu là lẽ phải rồi mới quyết định tin cùng không. (xem kinh Kalãma Sutta, Anguttara Nikãya, Tăng Nhứt A Hàm, quyển I, trang 189)

Ngài dạy muốn tìm chân lý hãy hướng vào bên trong bản thân mình, bởi vì:
"Trong tấm thân nhỏ bé (nguyên văn: Tấm thân dài một sải) này, cùng với những tri giác và những tư tưởng, Như-Lai tuyên bố thế-gian, nguồn gốc của thế-gian, sự chấm dứt thế-gian và con đường dẫn đến chấm dứt thế-gian". (Kinh Rohitassa Sutta)
Danh từ Loka mà ở đây được phiên dịch là thế-gian hàm xúc ý nghĩa thế-gian đau khổ và đau khổ là kinh nghiệm của thế-gian bên trong ta.

Dukkha là danh từ Pãli mà Ðức-Phật đã dùng để chỉ cái thường được phiên dịch là đau khổ. Vậy, để được rõ ràng hơn ta hãy tìm hiểu ý nghĩa bao hàm trong chữ Dukkha. Trong quyển "The Buddha and His Teachings", Ðại-Ðức Nãrada giải thích:
"Ðứng về phương diện cảm giác Dukkha là cái gì làm cho ta khó chịu đựng ("Du" là khó, "Kha" là chịu đựng). Nếu xem như một chân-lý trừu tượng, Dukkha hàm xúc ý nghĩa khinh miệt "Du", và trống rỗng "Kha". Thế-gian nằm trong sự đau khổ và như vậy là đáng khinh miệt, không đáng cho ta bám níu vào. Thế-gian là một ảo ảnh, không có thực chất. Do đó, thế-gian là rỗng không, hư vô. Vậy, Dukkha có nghĩa là một hư vô đáng khinh miệt, không đáng cho ta luyến ái và bám níu vào".

Trong bài thuyết trình vế Tứ-Diệu-Ðế (The Significance of The Four Noble Truths; Wheel Publication No. 123), đạo hữu cư sĩ Gunaratna giải thích danh từ Dukkha như sau:
"Danh từ Dukkha gồm hai thành phần: "Du " và "Kha". "Du" là một tiếp đầu ngữ hàm xúc ý nghĩa xấu, thấp kém, đê tiện, hèn hạ hay tầm thường. "Kha" là trống rỗng, hay nông cạn. Hai thành phần này hợp chung lại ám chỉ một cái gì xấu, không đáng được ưa thích, bởi vì nó trống rỗng, không có thực chất, huyền ảo, không làm thỏa mãn và thường được phiên dịch là "Ðau Khổ" hay "Khổ-Não". Tuy nhiên, hai chữ đau khổ và khổ-não chỉ bao hàm những ý niệm về một trạng thái khó chịu, tinh thần hay vật chất, mà không diễn đạt trạng thái rỗng không, huyền ảo và không thực của phạn ngữ Dukkha.

Dukkha không những phải khiêu gợi trong tâm ta những ý niệm không làm thỏa mãn của sự vật trên thế-gian, trạng thái không thực và dĩ nhiên, đưa đến tuyệt vọng, phiền muộn và bất ổn của tất cả những gì tạo nên khung cảnh sống của chúng ta. Dukkha bao gồm trạng thái chênh lệch, chao động và xáo trộn triền miên nối tiếp mà tất cả chúng sanh phải chịu vì không tìm được trong thế gian này sự bền vững, ổn định và thường còn. Tất cả sự vật bên trong và bên ngoài ta đều ở trong trạng thái luôn luôn sanh rồi diệt, diệt rồi sanh, vô cùng tận, tạo nên cảnh "bất toại nguyện" và "bất ổn định" của toàn thể vũ trụ".
Trong bài Pháp đầu tiên, gọi là Kinh Chuyển Pháp Luân, Ðức-Phật mô tả cái khổ như sau:
"Hởi này các Tỳ-Khưu, bây giờ, đây là chân-lý cao thượng về sự khổ. Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sống chung với người mình không ưa thích là khổ, xa lìa người thân yêu là khổ, mong muốn mà không được là khổ. Tóm lại, bám níu vào thân ngũ-uẩn là khổ".

Một câu chuyện thuật lại như sau:
"Người kia đi quanh quẩn giữa một khu rừng mênh mông, đầy chông gai và đá nhọn. Trong khi lang thang bất định, anh sực nhìn lại phía sau và thấy một thớt voi đang rượt theo. Giựt mình, anh vụt chạy. Voi đuổi theo. Chạy đến một cái giếng cạn anh định nhảy xuống để tránh voi. Nhưng dưới đáy giếng có một con rắn độc. Thớt voi vẫn lù lù trờ tới. Hoảng hốt, anh chụp lấy một dây rừng từ cây cao lòng thòng trên miệng giếng và vội vã leo phăng lên, bất chấp gai nhọn đầy trên sợi dây quàu trầy cả mình mẩy và tay chân. Lúc ấy anh chàng ngước mặt nhìn lên, thấy một ổ ong. Bầy ong bay tủa ra vây đánh anh. Phía trên nữa có hai con chuột, một trắng, một đen, đang cặm cụi gặm nhấm sợi dây mà anh đang đeo trên đó.
Vừa lúc ấy, một giọt mật từ ổ ong rơi xuống ngay vào miệng anh. Bấy giờ, quên cả thớt voi đang rượt, con rắn độc đang nằm dưới đáy giếng, sợi dây có gai nhọn quàu trầy cả mình mẩy, bầy ong đang vây đánh và hai con chuột, tượng trưng cho ngày và đêm, đang gặm nhấm sợi dây đời sống, anh mê mệt thọ hưởng giọt mật một cách thỏa thích...".

Ðó là hình ảnh của cuộc sống mà chúng ta đang sống: Người lang thang lạc bước giữa rừng là chúng ta. Khu rừng mênh mông đầy chông gai là kiếp nhân sinh trong vòng luân hồi. Thớt voi tượng trưng cho Tử Thần. Con rắn độc nằm dưới đáy giếng là sự già nua. Sợi dây rừng đầy gai nhọn là sự sinh. Bầy ong là những nỗi khổ đau luôn luôn đe dọa sự an lành của chúng ta. Giọt mật hình dung những thú vui hiếm hoi trong đời sống. Hai con chuột, một trắng, một đen là ngày và đêm.

Quả thật vậy, cuộc sống của chúng ta trong vòng luân hồi không giống như một vườn hoa tươi đẹp, lộng lẩy màu sắc và bát ngát hương trầm, mà tựa hồ như một khu rừng mênh mông đầy chông gai và đá nhọn. Trên bước viễn du trong vòng luân hồi, từ vô lượng kiếp, chúng ta vẫn còn đang lặn hụp trong những kiếp sống triền miên tiếp diễn mà không tìm được đường thoát. Hạnh phúc mà phần đông chúng ta mong tìm chỉ là sự thỏa mãn một vài ước vọng. Nhưng vừa khi đạt đến điều mong mỏi ta lại ước mơ điều khác và cứ như thế không ngừng. Chúng ta không bao giờ được thỏa mãn trọn vẹn vì không bao giờ biết là đủ. Lẽ dĩ nhiên, một ước vọng không được toại nguyện làm cho ta đau khổ. Nhưng dầu có được toại nguyện đi nữa, ta lại lo âu, bận tâm suy nghĩ để gìn giữ, sợ nó mất đi. Trong cảnh cơ hàn, ta ước mong được sang trọng giàu có, rồi khi được giàu sang ta lại lo sợ phải nghèo đói cơ cực. Nhưng trong cuộc sống vô thường tạm bợ này có thú vui nào tồn tại mãi mãi, có hạnh phúc nào trường tồn. Mặt trời mọc ở phương Ðông chỉ để lặn ở phương Tây, hoa nở tốt tươi buổi sáng để rồi úa tàn về chiều, mọi cuộc sum hợp vui vầy đều phải chấm dứt trong phân tán chia lìa, vừa lúc sanh ra đời đã phải mang theo mầm mống chết. Chừng ấy nổi sầu muộn càng sâu đậm. Trong thế-gian huyền ảo, tạm bợ, vô-thường, ngã chấp và đầy tham vọng này chúng ta không thể tìm được hạnh phúc thật sự, trường tồn vĩnh cửu.
Sanh, già, bệnh, chết là những gì mà trong đời sống không ai có thể tránh khỏi. Và bốn trạng thái đau khổ ấy được tượng trưng trong câu chuyện bằng sợi dây, con rắn, gai nhọn trên sợi dây và thớt voi.

Cái sanh mà trong câu chuyện, được tượng trưng bằng sợi dây đầy gai nhọn phải được hiểu là sự sống và sự sống trong một kiếp bắt đầu lúc vừa được thọ thai, không phải lúc lọt lòng mẹ. Vài người tưởng tượng thai bào như một nơi chốn ấm cúng đầy đủ tiện nghi, hay như một tịnh thất đượm nhuần tình thương mà con người ẩn rút vào đó một thời gian để tịnh dưỡng tâm linh. Trong thực tế, được thọ thai vào lòng mẹ không giống như hiện thân vào nằm trong một đóa hoa sen đẹp đẽ, tinh khiết và có mùi thơm dịu dàng. Trái lại, tứ bề là những gì nhơ nhớp, tanh hôi. Không có gì là hấp dẫn cho cả mẹ lẫn con. Sau chín tháng mười ngày chịu đựng mọi đau khổ, nằm trong một cái bọc, em bé thoát lòng mẹ và được kéo lôi ra, tống vào đời. Một lần nữa, mẹ và con vô cùng đau đớn. Mẹ nhăn nhó rên siết, con cất tiếng chào đời bằng giọng la khóc, trong khi mọi người khác hân hoan thỏa thích đón mừng.

Khi nói sanh là khổ, không phải chúng ta chỉ nghĩ đến nỗi khổ nhọc hiểm nguy gây nên do cảnh mang nặng đẻ đau mà sâu xa hơn, ta phải nhận thức rằng chính cái sanh là đầu dây mối nhợ, là khởi duyên, tạo cơ hội cho cái khổ bám vào. Nếu không sanh tức không có sự sống và không có sự sống tức là không có khổ. Vì lẽ ấy mục tiêu cứu cánh của người Phật-tử là thoát ra khỏi vòng sanh tử luân hồi, tức thoát ra khỏi mọi khổ đau. Nhưng bản chất tự nhiên của chúng sanh là cố bám vào sự sống, giống như anh chàng bị gai quàu trầy cả mình mẩy mà vẫn đeo chắc lấy sợi dây, vì ái-dục là một năng lực vô cùng hùng mạnh, luôn luôn tiềm tàng ngủ ngầm bên trong tất cả mọi người. Chính ái-dục, thô kịch hay vi tế, thúc đẩy ta đeo níu, cố bám chắc vào sự sống dưới mọi hình thức và do đó, dẫn dắt ta mãi mãi phiêu bạt trong biển trầm luân.

Ðã sanh ra tất trưởng thành và đi dần vào cảnh già nua. Trong câu chuyện, con rắn độc nằm dưới đáy giếng tượng trưng cho tuổi già. Danh từ "Jarã" mà Ðức-Phật dùng ở đây không phải chỉ riêng tuổi già mà hàm xúc ý niệm "đi dần đến tuổi già" hay "hư hoại". Như vậy có sự biến đổi từ lúc còn trong bào thai chớ không đợi đến lúc lọt lòng mẹ. Lẽ dĩ nhiên, thân thể hao mòn tiều tụy, răng long, tóc bạc, má cóp da nhăn, mắt mờ tai điếc, tinh thần suy kém, trí não lu mờ, quên trước lộn sau... là cảnh già nua phát lộ ra ngoài và nổi bật một cách hiển nhiên mà tất cả mọi người đều thấy. Nhưng từ khi thọ thai, chúng ta luôn luôn biến đổi, liên tục trưởng thành, không ngừng trở thành một cái gì mới, rồi đi dần đến cảnh già nua, diệt vong và tan rã.

Tất cả mọi sự vật được cấu thành đều phải hư hoại và diệt vong. Lẽ dĩ nhiên, thể xác của chúng ta, do nhiều thành phần lớn nhỏ cấu hợp, ắt phải bị hoại diệt. Ðó là đau khổ (Dukkha) đối với những ai hằng bám níu vào cơ thể vật chất của mình, chấp rằng đây là "Tôi", cái này là "của Tôi". Chúng ta có thể nhìn sự hư hoại của thân, tức Dukkha, dưới ba phương diện. Trước là một phần của thân hư hoại, không thể hoạt động như ý ta muốn, như một cánh tay hay một cái chân bại xụi, một bộ phận trong mình bị tê liệt... và hằng trăm triệu chứng ương yếu khác. Trường hợp thứ nhì là giác quan hư hỏng, như đui mù, câm điếc chẳng hạn. Và thứ ba là trí não, hư hoại như thần kinh rối loạn, mất trí nhớ, trở nên lãng trí không còn hiểu biết rõ ràng. Tất cả những trạng thái hư hoại ấy đều dẫn đến đau khổ. Nhưng nếu so sánh, hai phương diện hư hoại đầu, dầu rất khó chịu đựng, vẫn không sâu xa bằng phương diện thứ ba. Ta có bị tật nguyền cách nào, trạng thái đau khổ chỉ kéo dài trong một kiếp sống, trong khi người mà tâm linh hư hoại ắt không đủ sáng suốt để đi theo con đường của Giáo-pháp và như vậy phải chịu khổ đau triền miên trong nhiều kiếp sinh tồn.

Nhiều bạn trẻ rất hãnh diện với thân hình cường tráng khỏe mạnh của mình, vẫn không thích nghĩ đến tuổi già, để trọn vẹn thọ hưởng những thú vui của thời niên thiếu. Nhưng dầu ta có nghĩ đến nó cùng không, nó vẫn ở đâu đây. Con rắn độc vẫn luôn luôn nằm dưới đáy giếng. Tình trạng già nua đến với ta từng giây, từng phút và thâu ngắn đời sống chúng ta trong từng chập tư tưởng. Bao nhiêu người trong chúng ta, chịu bình tâm suy niệm về hiện tượng chết?

Có sanh, có sống là có bệnh. Bệnh hoạn là việc dĩ nhiên trong đời sống và trong câu chuyện, được tượng trưng bằng những gai nhọn trên sợi dây. Dầu già, dầu trẻ hay bất luận ở lứa tuổi nào ta cũng có thể lâm bệnh. Tấm thân ô trược này chỉ là nơi nương tựa của bao nhiêu bệnh hoạn tật nguyền. Ðức-Phật dạy:
"Hãy nhìn cái thể xác đẹp đẽ này, một khối đau đớn, một đống bệnh tật, được người ta bận tâm đến nhiều nhưng không chứa đựng gì bền vững, không có gì tồn tại".

Có những bệnh tật của thể xác, cũng có những bệnh tinh thần. Cả hai, bệnh tinh thần hay thể xác, đều là nguyên nhân sanh khổ. Vào thời Ðức-Phật có một cụ già tên Nakulapita, một hôm đến bạch với Ngài:
"Bạch Hóa Ðức Thế-Tôn, nay con đã già yếu, thân thể gầy còm, đi đứng lụm cụm, tuổi quá cao. Con đã đến mức tận cùng của kiếp sống, thường bệnh hoạn và luôn luôn ương yếu. Cúi xin Ðức Thế-Tôn mở lượng từ-bi khuyên dạy, an ủi con thế nào để con có thể an hưởng phước báu lâu dài".

- "Ðúng vậy, này ông Thiện Nam, quả thật thân thể của ông đã yếu đuối mỏi mòn. Tuy nhiên này ông Thiện Nam, người nào mang thân này mà khoe khoang rằng mình hoàn toàn mạnh khỏe, chỉ trong chốc lát thôi, người ấy cũng là điên cuồng. Như vậy này ông Thiện Nam, ông hãy tu tập suy niệm như sau, "dầu thân xác này có ương yếu, ta sẽ không để cho tâm bệnh hoạn".

Cụ già Nakulapita nghe được lời dạy của Ðức-Phật thì lòng phấn khởi, hoan-hỷ đảnh lễ Ngài rồi ra đi. Và cụ đến bạch với Ngài Sãriputta (Xá-Lợi-Phất) xin Ngài giải thích thêm thế nào là thân thể bệnh hoạn mà tâm cũng bệnh hoạn và thế nào là thân bệnh mà tâm không bệnh.
Ðức Sãriputta dạy: "Nơi đây (trong trường hợp này), này ông Thiện-Nam, người không phân biện rõ ràng Giáo-pháp, không tu tập theo lời dạy của Giáo-pháp, xem thân thể này là chính mình (là tự ngã) thấy tự ngã của mình nằm trong thân thể, thân thể trong tự ngã. Người ấy nói: "Tôi là thân này, thân này là của tôi và ý tưởng ấy thâm nhiễm lâu ngày nhiều kiếp như vậy. Ðến khi thân thể biến đổi, tàn tạ và ngày càng trở nên tồi tệ thêm, theo định luật vô-thường, bất ổn định, dính liền với mọi sư vật, mọi kiếp sinh tồn, thì cảm nghe buồn rầu, âu sầu, đau khổ. Người ấy ta thán, than vản, tuyệt vọng.

Người ấy xem Thọ, Tưởng, Hành, Thức là tự ngã, xem chính mình nằm trong Thọ, Tưởng, Hành, Thức, hoặc xem Thọ, Tưởng, Hành, Thức nằm trong chính mình và nói: "chính ta là ngũ-uẩn, ngũ-uẩn là ta, cái này là Thọ, Tưởng, Hành, Thức của ta" và cứ thế ý niệm tự đồng hóa với ngũ-uẩn thâm nhiễm người ấy. Do đó, khi Thọ, Tưởng, Hành, Thức, biến đổi ... vì bản chất của nó là bất ổn định và luôn luôn biến đổi thì người ấy buồn rầu ta thán, âu sầu và tuyệt vọng. Ðó, này ông Thiện-Nam, là thân bệnh hoạn mà tâm cũng bệnh hoạn.
Và bấy giờ, thế nào là thân ương yếu bệnh hoạn mà tâm cường tráng khỏe mạnh? Người được giáo dục đầy đủ, tu tập thuần thục trong Giáo-pháp của bậc Thánh Nhân, người ấy xem thân này không phải là tự ngã và tự ngã không nằm trong thân này. Người ấy không nói "Tôi là thân này, thân này là tôi", mà cũng không bị ý niệm ấy thâm nhiễm. Như vậy, khi thân biến đổi và tàn tạ người ấy không âu sầu, không phiền muộn...

Cùng thế ấy, người ấy không xem Thọ, Tưởng, Hành, Thức là chính mình, cũng không xem tự ngã mình nằm trong bốn uẩn ấy. Người ấy không bị ý niệm kia thâm nhiễm và không nói, "Thọ, Tưởng, Hành, Thức là tôi, tôi là Thọ, Tưởng, Hành, Thức". Vì không thâm nhiễm những ý niệm sai lạc ấy, khi Thọ, Tưởng, Hành, Thức biến đổi người ấy không âu sầu, không phiền muộn..."

Trích:

Ba đặc tướng của đời sống
Phạm Kim Khánh