Ðức-Phật sanh ra là Thái-tử
Siddhattha (Sĩ-Ðạt-Ta hay Tất-Ðạt-Ða), một người như tất cả mọi người. Vào năm
35 tuổi, Ngài khước từ cuộc sống trên nhung lụa của cung vàng điện ngọc và trở
thành Ðạo-sĩ Gotama (Cồ-Ðàm). Sau sáu năm theo học với các vị đạo-sư trứ
danh thời bấy giờ và thực hành các pháp khổ hạnh đến mức cùng cực mà không thâu
đạt được kết quả mong muốn, Ðạo-sĩ Gotama tìm đến một nơi vắng vẻ tại Uruvela
(Ưu Lâu Tần Loa), giữa khu rừng tươi tốt, bên cạnh một giòng sông ngoạn mục,
rồi ngày đêm trầm tư mặc niệm, gom tâm quan sát từng yếu tố vật chất và tinh
thần của chính bản thân mình Ngài tìm ra Ánh sáng Chân-Lý, trở thành Phật, bậc
Chánh Ðẳng Chánh Giác. Từ đó, trong 45 năm trường Ðức-Phật Gotama đi
cùng khắp miền Bắc xứ Ấn-Ðộ, từ làng này đến làng khác, từ tỉnh nọ đến tỉnh
kia, đi trên các con đường lớn và các nẻo nhỏ, để mang lại cho nhân loại bức
thông điệp hòa bình và an tịnh, bủa rộng vòng hào quang từ-bi và trí tuệ
vô-lượng vô-biên của Ngài bao trùm tất cả sanh linh. Tôn giáo do Ngài sáng lập
được gọi là Phật-Giáo.
Như vậy, Phật-Giáo xuất phát
từ nhân sinh, hướng về nhân sinh, nhằm phục vụ nhân sinh.
Ðức-Phật không đặt nền tảng
giáo lý trên sự sợ sệt một oai lực huyền bí siêu thế nào, cũng không dạy hàng
tín đồ phải mong nhờ sự giúp đỡ nào từ bên ngoài, hay trông cậy nơi sự cứu rỗi
nào từ trên ban xuống. Ngài dạy chẳng nên vội tin chắc một điều gì là chân lý
chỉ vì điều ấy đã được ghi chép trong kinh sách, hay vì điều ấy do một nhân vật
quan trọng hoặc có uy quyền truyền dạy, chí đến lời của chính Ngài, cũng không
nên vội vã tin càng mà phải luôn luôn dùng lý trí phân tách, quan sát, xét đoán
tỷ mỷ, tận tường, phân biệt đâu là lẽ phải rồi mới quyết định tin cùng không.
(xem kinh Kalãma Sutta, Anguttara Nikãya, Tăng Nhứt A Hàm, quyển I,
trang 189)
Ngài dạy muốn tìm chân lý
hãy hướng vào bên trong bản thân mình, bởi vì:
"Trong tấm thân nhỏ bé
(nguyên văn: Tấm thân dài một sải) này, cùng với những tri giác và những tư
tưởng, Như-Lai tuyên bố thế-gian, nguồn gốc của thế-gian, sự chấm dứt thế-gian
và con đường dẫn đến chấm dứt thế-gian". (Kinh Rohitassa Sutta)
Danh từ Loka mà ở đây
được phiên dịch là thế-gian hàm xúc ý nghĩa thế-gian đau khổ và đau khổ là kinh
nghiệm của thế-gian bên trong ta.
Dukkha là danh từ Pãli mà Ðức-Phật đã dùng
để chỉ cái thường được phiên dịch là đau khổ. Vậy, để được rõ ràng hơn ta hãy
tìm hiểu ý nghĩa bao hàm trong chữ Dukkha. Trong quyển "The Buddha
and His Teachings", Ðại-Ðức Nãrada giải thích:
"Ðứng về phương diện
cảm giác Dukkha là cái gì làm cho ta khó chịu đựng ("Du"
là khó, "Kha" là chịu đựng). Nếu xem như một chân-lý trừu
tượng, Dukkha hàm xúc ý nghĩa khinh miệt "Du", và trống
rỗng "Kha". Thế-gian nằm trong sự đau khổ và như vậy là đáng
khinh miệt, không đáng cho ta bám níu vào. Thế-gian là một ảo ảnh, không có
thực chất. Do đó, thế-gian là rỗng không, hư vô. Vậy, Dukkha có nghĩa là
một hư vô đáng khinh miệt, không đáng cho ta luyến ái và bám níu vào".
Trong bài thuyết trình vế
Tứ-Diệu-Ðế (The Significance of The Four Noble Truths; Wheel Publication No.
123), đạo hữu cư sĩ Gunaratna giải thích danh từ Dukkha như sau:
"Danh từ Dukkha
gồm hai thành phần: "Du " và "Kha".
"Du" là một tiếp đầu ngữ hàm xúc ý nghĩa xấu, thấp kém, đê tiện, hèn
hạ hay tầm thường. "Kha" là trống rỗng, hay nông cạn. Hai
thành phần này hợp chung lại ám chỉ một cái gì xấu, không đáng được ưa thích,
bởi vì nó trống rỗng, không có thực chất, huyền ảo, không làm thỏa mãn và
thường được phiên dịch là "Ðau Khổ" hay "Khổ-Não". Tuy
nhiên, hai chữ đau khổ và khổ-não chỉ bao hàm những ý niệm về một trạng thái
khó chịu, tinh thần hay vật chất, mà không diễn đạt trạng thái rỗng không,
huyền ảo và không thực của phạn ngữ Dukkha.
Dukkha không những phải khiêu gợi trong tâm
ta những ý niệm không làm thỏa mãn của sự vật trên thế-gian, trạng thái không
thực và dĩ nhiên, đưa đến tuyệt vọng, phiền muộn và bất ổn của tất cả những gì
tạo nên khung cảnh sống của chúng ta. Dukkha bao gồm trạng thái chênh
lệch, chao động và xáo trộn triền miên nối tiếp mà tất cả chúng sanh phải chịu
vì không tìm được trong thế gian này sự bền vững, ổn định và thường còn. Tất cả
sự vật bên trong và bên ngoài ta đều ở trong trạng thái luôn luôn sanh rồi
diệt, diệt rồi sanh, vô cùng tận, tạo nên cảnh "bất toại nguyện" và
"bất ổn định" của toàn thể vũ trụ".
Trong bài Pháp đầu tiên, gọi
là Kinh Chuyển Pháp Luân, Ðức-Phật mô tả cái khổ như sau:
"Hởi này các Tỳ-Khưu,
bây giờ, đây là chân-lý cao thượng về sự khổ. Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là
khổ, chết là khổ, sống chung với người mình không ưa thích là khổ, xa lìa người
thân yêu là khổ, mong muốn mà không được là khổ. Tóm lại, bám níu vào thân
ngũ-uẩn là khổ".
Một câu chuyện thuật lại như sau:
"Người kia đi quanh quẩn giữa
một khu rừng mênh mông, đầy chông gai và đá nhọn. Trong khi lang thang bất
định, anh sực nhìn lại phía sau và thấy một thớt voi đang rượt theo. Giựt mình,
anh vụt chạy. Voi đuổi theo. Chạy đến một cái giếng cạn anh định nhảy xuống để
tránh voi. Nhưng dưới đáy giếng có một con rắn độc. Thớt voi vẫn lù lù trờ tới.
Hoảng hốt, anh chụp lấy một dây rừng từ cây cao lòng thòng trên miệng giếng và
vội vã leo phăng lên, bất chấp gai nhọn đầy trên sợi dây quàu trầy cả mình mẩy
và tay chân. Lúc ấy anh chàng ngước mặt nhìn lên, thấy một ổ ong. Bầy ong bay
tủa ra vây đánh anh. Phía trên nữa có hai con chuột, một trắng, một đen, đang
cặm cụi gặm nhấm sợi dây mà anh đang đeo trên đó.
Vừa lúc ấy, một giọt mật từ ổ ong
rơi xuống ngay vào miệng anh. Bấy giờ, quên cả thớt voi đang rượt, con rắn độc
đang nằm dưới đáy giếng, sợi dây có gai nhọn quàu trầy cả mình mẩy, bầy ong
đang vây đánh và hai con chuột, tượng trưng cho ngày và đêm, đang gặm nhấm sợi
dây đời sống, anh mê mệt thọ hưởng giọt mật một cách thỏa thích...".
Ðó là hình ảnh của cuộc sống mà
chúng ta đang sống: Người lang thang lạc bước giữa rừng là chúng ta. Khu rừng
mênh mông đầy chông gai là kiếp nhân sinh trong vòng luân hồi. Thớt voi tượng
trưng cho Tử Thần. Con rắn độc nằm dưới đáy giếng là sự già nua. Sợi dây rừng
đầy gai nhọn là sự sinh. Bầy ong là những nỗi khổ đau luôn luôn đe dọa sự an
lành của chúng ta. Giọt mật hình dung những thú vui hiếm hoi trong đời sống.
Hai con chuột, một trắng, một đen là ngày và đêm.
Quả thật vậy, cuộc sống của chúng ta
trong vòng luân hồi không giống như một vườn hoa tươi đẹp, lộng lẩy màu sắc và bát
ngát hương trầm, mà tựa hồ như một khu rừng mênh mông đầy chông gai và đá nhọn.
Trên bước viễn du trong vòng luân hồi, từ vô lượng kiếp, chúng ta vẫn còn đang
lặn hụp trong những kiếp sống triền miên tiếp diễn mà không tìm được đường
thoát. Hạnh phúc mà phần đông chúng ta mong tìm chỉ là sự thỏa mãn một vài ước
vọng. Nhưng vừa khi đạt đến điều mong mỏi ta lại ước mơ điều khác và cứ như thế
không ngừng. Chúng ta không bao giờ được thỏa mãn trọn vẹn vì không bao giờ
biết là đủ. Lẽ dĩ nhiên, một ước vọng không được toại nguyện làm cho ta đau
khổ. Nhưng dầu có được toại nguyện đi nữa, ta lại lo âu, bận tâm suy nghĩ để
gìn giữ, sợ nó mất đi. Trong cảnh cơ hàn, ta ước mong được sang trọng giàu có,
rồi khi được giàu sang ta lại lo sợ phải nghèo đói cơ cực. Nhưng trong cuộc
sống vô thường tạm bợ này có thú vui nào tồn tại mãi mãi, có hạnh phúc nào
trường tồn. Mặt trời mọc ở phương Ðông chỉ để lặn ở phương Tây, hoa nở tốt tươi
buổi sáng để rồi úa tàn về chiều, mọi cuộc sum hợp vui vầy đều phải chấm dứt
trong phân tán chia lìa, vừa lúc sanh ra đời đã phải mang theo mầm mống chết.
Chừng ấy nổi sầu muộn càng sâu đậm. Trong thế-gian huyền ảo, tạm bợ, vô-thường,
ngã chấp và đầy tham vọng này chúng ta không thể tìm được hạnh phúc thật sự,
trường tồn vĩnh cửu.
Sanh, già, bệnh, chết là những gì mà
trong đời sống không ai có thể tránh khỏi. Và bốn trạng thái đau khổ ấy được
tượng trưng trong câu chuyện bằng sợi dây, con rắn, gai nhọn trên sợi dây và
thớt voi.
Cái sanh mà trong câu chuyện, được
tượng trưng bằng sợi dây đầy gai nhọn phải được hiểu là sự sống và sự sống
trong một kiếp bắt đầu lúc vừa được thọ thai, không phải lúc lọt lòng mẹ. Vài
người tưởng tượng thai bào như một nơi chốn ấm cúng đầy đủ tiện nghi, hay như
một tịnh thất đượm nhuần tình thương mà con người ẩn rút vào đó một thời gian
để tịnh dưỡng tâm linh. Trong thực tế, được thọ thai vào lòng mẹ không giống
như hiện thân vào nằm trong một đóa hoa sen đẹp đẽ, tinh khiết và có mùi thơm
dịu dàng. Trái lại, tứ bề là những gì nhơ nhớp, tanh hôi. Không có gì là hấp dẫn
cho cả mẹ lẫn con. Sau chín tháng mười ngày chịu đựng mọi đau khổ, nằm trong
một cái bọc, em bé thoát lòng mẹ và được kéo lôi ra, tống vào đời. Một lần nữa,
mẹ và con vô cùng đau đớn. Mẹ nhăn nhó rên siết, con cất tiếng chào đời bằng
giọng la khóc, trong khi mọi người khác hân hoan thỏa thích đón mừng.
Khi nói sanh là khổ, không phải
chúng ta chỉ nghĩ đến nỗi khổ nhọc hiểm nguy gây nên do cảnh mang nặng đẻ đau
mà sâu xa hơn, ta phải nhận thức rằng chính cái sanh là đầu dây mối nhợ, là
khởi duyên, tạo cơ hội cho cái khổ bám vào. Nếu không sanh tức không có sự sống
và không có sự sống tức là không có khổ. Vì lẽ ấy mục tiêu cứu cánh của người
Phật-tử là thoát ra khỏi vòng sanh tử luân hồi, tức thoát ra khỏi mọi khổ đau.
Nhưng bản chất tự nhiên của chúng sanh là cố bám vào sự sống, giống như anh
chàng bị gai quàu trầy cả mình mẩy mà vẫn đeo chắc lấy sợi dây, vì ái-dục là
một năng lực vô cùng hùng mạnh, luôn luôn tiềm tàng ngủ ngầm bên trong tất cả
mọi người. Chính ái-dục, thô kịch hay vi tế, thúc đẩy ta đeo níu, cố bám chắc
vào sự sống dưới mọi hình thức và do đó, dẫn dắt ta mãi mãi phiêu bạt trong
biển trầm luân.
Ðã sanh ra tất trưởng thành và đi
dần vào cảnh già nua. Trong câu chuyện, con rắn độc nằm dưới đáy giếng tượng
trưng cho tuổi già. Danh từ "Jarã" mà Ðức-Phật dùng ở đây
không phải chỉ riêng tuổi già mà hàm xúc ý niệm "đi dần đến tuổi già"
hay "hư hoại". Như vậy có sự biến đổi từ lúc còn trong bào thai chớ
không đợi đến lúc lọt lòng mẹ. Lẽ dĩ nhiên, thân thể hao mòn tiều tụy, răng long,
tóc bạc, má cóp da nhăn, mắt mờ tai điếc, tinh thần suy kém, trí não lu mờ,
quên trước lộn sau... là cảnh già nua phát lộ ra ngoài và nổi bật một cách hiển
nhiên mà tất cả mọi người đều thấy. Nhưng từ khi thọ thai, chúng ta luôn luôn
biến đổi, liên tục trưởng thành, không ngừng trở thành một cái gì mới, rồi đi
dần đến cảnh già nua, diệt vong và tan rã.
Tất cả mọi sự vật được cấu thành đều
phải hư hoại và diệt vong. Lẽ dĩ nhiên, thể xác của chúng ta, do nhiều thành
phần lớn nhỏ cấu hợp, ắt phải bị hoại diệt. Ðó là đau khổ (Dukkha)
đối với những ai hằng bám níu vào cơ thể vật chất của mình, chấp rằng đây là
"Tôi", cái này là "của Tôi". Chúng ta có thể nhìn sự hư
hoại của thân, tức Dukkha, dưới ba phương diện. Trước là một phần của
thân hư hoại, không thể hoạt động như ý ta muốn, như một cánh tay hay một cái
chân bại xụi, một bộ phận trong mình bị tê liệt... và hằng trăm triệu chứng
ương yếu khác. Trường hợp thứ nhì là giác quan hư hỏng, như đui mù, câm điếc
chẳng hạn. Và thứ ba là trí não, hư hoại như thần kinh rối loạn, mất trí nhớ,
trở nên lãng trí không còn hiểu biết rõ ràng. Tất cả những trạng thái hư hoại
ấy đều dẫn đến đau khổ. Nhưng nếu so sánh, hai phương diện hư hoại đầu, dầu rất
khó chịu đựng, vẫn không sâu xa bằng phương diện thứ ba. Ta có bị tật nguyền
cách nào, trạng thái đau khổ chỉ kéo dài trong một kiếp sống, trong khi người
mà tâm linh hư hoại ắt không đủ sáng suốt để đi theo con đường của Giáo-pháp và
như vậy phải chịu khổ đau triền miên trong nhiều kiếp sinh tồn.
Nhiều bạn trẻ rất hãnh diện với thân
hình cường tráng khỏe mạnh của mình, vẫn không thích nghĩ đến tuổi già, để trọn
vẹn thọ hưởng những thú vui của thời niên thiếu. Nhưng dầu ta có nghĩ đến nó
cùng không, nó vẫn ở đâu đây. Con rắn độc vẫn luôn luôn nằm dưới đáy giếng.
Tình trạng già nua đến với ta từng giây, từng phút và thâu ngắn đời sống chúng
ta trong từng chập tư tưởng. Bao nhiêu người trong chúng ta, chịu bình tâm suy
niệm về hiện tượng chết?
Có sanh, có sống là có bệnh. Bệnh
hoạn là việc dĩ nhiên trong đời sống và trong câu chuyện, được tượng trưng bằng
những gai nhọn trên sợi dây. Dầu già, dầu trẻ hay bất luận ở lứa tuổi nào ta
cũng có thể lâm bệnh. Tấm thân ô trược này chỉ là nơi nương tựa của bao nhiêu
bệnh hoạn tật nguyền. Ðức-Phật dạy:
"Hãy nhìn cái thể xác đẹp đẽ
này, một khối đau đớn, một đống bệnh tật, được người ta bận tâm đến nhiều nhưng
không chứa đựng gì bền vững, không có gì tồn tại".
Có những bệnh tật của thể xác, cũng
có những bệnh tinh thần. Cả hai, bệnh tinh thần hay thể xác, đều là nguyên nhân
sanh khổ. Vào thời Ðức-Phật có một cụ già tên Nakulapita, một hôm đến
bạch với Ngài:
"Bạch Hóa Ðức Thế-Tôn, nay con
đã già yếu, thân thể gầy còm, đi đứng lụm cụm, tuổi quá cao. Con đã đến mức tận
cùng của kiếp sống, thường bệnh hoạn và luôn luôn ương yếu. Cúi xin Ðức Thế-Tôn
mở lượng từ-bi khuyên dạy, an ủi con thế nào để con có thể an hưởng phước báu
lâu dài".
- "Ðúng vậy, này ông Thiện Nam,
quả thật thân thể của ông đã yếu đuối mỏi mòn. Tuy nhiên này ông Thiện Nam,
người nào mang thân này mà khoe khoang rằng mình hoàn toàn mạnh khỏe, chỉ trong
chốc lát thôi, người ấy cũng là điên cuồng. Như vậy này ông Thiện Nam, ông hãy
tu tập suy niệm như sau, "dầu thân xác này có ương yếu, ta sẽ không để cho
tâm bệnh hoạn".
Cụ già Nakulapita nghe được
lời dạy của Ðức-Phật thì lòng phấn khởi, hoan-hỷ đảnh lễ Ngài rồi ra đi. Và cụ
đến bạch với Ngài Sãriputta (Xá-Lợi-Phất) xin Ngài giải thích thêm thế
nào là thân thể bệnh hoạn mà tâm cũng bệnh hoạn và thế nào là thân bệnh mà tâm
không bệnh.
Ðức Sãriputta dạy: "Nơi
đây (trong trường hợp này), này ông Thiện-Nam, người không phân biện rõ ràng
Giáo-pháp, không tu tập theo lời dạy của Giáo-pháp, xem thân thể này là chính
mình (là tự ngã) thấy tự ngã của mình nằm trong thân thể, thân thể trong tự
ngã. Người ấy nói: "Tôi là thân này, thân này là của tôi và ý tưởng ấy
thâm nhiễm lâu ngày nhiều kiếp như vậy. Ðến khi thân thể biến đổi, tàn tạ và
ngày càng trở nên tồi tệ thêm, theo định luật vô-thường, bất ổn định, dính liền
với mọi sư vật, mọi kiếp sinh tồn, thì cảm nghe buồn rầu, âu sầu, đau khổ. Người
ấy ta thán, than vản, tuyệt vọng.
Người ấy xem Thọ, Tưởng, Hành, Thức
là tự ngã, xem chính mình nằm trong Thọ, Tưởng, Hành, Thức, hoặc xem Thọ,
Tưởng, Hành, Thức nằm trong chính mình và nói: "chính ta là ngũ-uẩn,
ngũ-uẩn là ta, cái này là Thọ, Tưởng, Hành, Thức của ta" và cứ thế ý niệm
tự đồng hóa với ngũ-uẩn thâm nhiễm người ấy. Do đó, khi Thọ, Tưởng, Hành, Thức,
biến đổi ... vì bản chất của nó là bất ổn định và luôn luôn biến đổi thì người
ấy buồn rầu ta thán, âu sầu và tuyệt vọng. Ðó, này ông Thiện-Nam, là thân bệnh
hoạn mà tâm cũng bệnh hoạn.
Và bấy giờ, thế nào là thân ương yếu
bệnh hoạn mà tâm cường tráng khỏe mạnh? Người được giáo dục đầy đủ, tu tập
thuần thục trong Giáo-pháp của bậc Thánh Nhân, người ấy xem thân này không phải
là tự ngã và tự ngã không nằm trong thân này. Người ấy không nói "Tôi là
thân này, thân này là tôi", mà cũng không bị ý niệm ấy thâm nhiễm. Như
vậy, khi thân biến đổi và tàn tạ người ấy không âu sầu, không phiền muộn...
Cùng thế ấy, người ấy không xem Thọ,
Tưởng, Hành, Thức là chính mình, cũng không xem tự ngã mình nằm trong bốn uẩn
ấy. Người ấy không bị ý niệm kia thâm nhiễm và không nói, "Thọ, Tưởng,
Hành, Thức là tôi, tôi là Thọ, Tưởng, Hành, Thức". Vì không thâm nhiễm
những ý niệm sai lạc ấy, khi Thọ, Tưởng, Hành, Thức biến đổi người ấy không âu
sầu, không phiền muộn..."
Trích:
Ba đặc tướng của đời sống
Phạm Kim Khánh