Sống
với thực tại
Thực tại là khái niệm
triết học dùng để chỉ hiện thực khách quan hay tổng thể những gì đang tồn tại
và diễn biến xung quanh cuộc sống mà tư duy con người không dự phần. Nó có thể
là con suối đang chảy, dòng sông đang trôi hay hơi thở vào ra hết sức tự nhiên,
biểu lộ như nó là, mà không phải những gì người ta nghĩ về hay suy diễn.
Suy
nghĩ hay diễn đạt một thứ gì đó dựa vào ký ức và ngôn ngữ tức không phải và
không còn là thực tại. Đấy chỉ là hình ảnh được sao chép bởi ý thức và kinh
nghiệm. Triết gia Hy Lạp cổ đại Heraclitus nói rằng người ta không thể đặt chân
hai lần trên một dòng sông.
Trong
tiếng Việt, có một câu nói hàm ý rất hay về thực tại:
“Mải lo suy nghĩ, bỏ quên thực tại”.
Câu
nói này, một mặt ám chỉ sự kiện rằng người ta cứ lo nghĩ vẩn vơ đến độ bỏ quên
những việc trước mắt, những việc lẽ ra cần phải được quan tâm giải quyết trước
mắt hay cần làm ngay. Mặt khác, nó ngụ ý rằng thực tại không nằm trong suy
nghĩ; suy nghĩ tức là đánh mất thực tại.
Đạo
Phật nêu quan điểm tương tự về thực tại. Trước hết, đạo Phật cho rằng thực tại
là cái trước mắt mà mọi người có thể nhìn thấy hay cảm nhận, không phải những
gì xa xôi trừu tượng. Trong số các từ ngữ Đức Phật dùng để chỉ thực tại, người
ta tìm thấy từ dukkha (khổ đau), ngoài
các từ ngữ khác như paticcasamuppàda (duyên sinh), anicca(vô thường), anatta (vô ngã). Tất cả chỉ là thực tại đang trôi chảy; không có gì
tồn tại mãi, kể cả khổ đau. Từ đây đạo Phật đề xuất cách nhận diện và sống với
thực tại, đó là tập trung quán sát về mọi hiện tượng khổ đau (ngũ uẩn, thập nhị
xứ, thập bát giới – con người và thế giới chung quanh), thấy rõ chúng là giả
hợp, vô thường, vô ngã (không làm chủ được), khiến tâm thức trở nên tỉnh táo,
sáng suốt, không còn rơi vào luyến ái, vướng mắc, không thuận ứng hay nghịch
ứng1, đạt đến thanh thản, tịch tịnh, Niết-bàn; gọi là sống giải thoát an lạc
ngay đây và bây giờ. Theo quan niệm của đạo Phật thì mọi sự vật và hiện tượng
chỉ là một hợp thể gồm các nhân duyên đang vận hành, một dòng chảy tương tục,
thường xuyên thay đổi, không có tên tuổi; do vậy, cái mà ta gọi là đau khổ cũng
chỉ là cảm thức đóng khung về cái thực tại đang chuyển biến, đang thay đổi, một
ngã tưởng, một ý niệm nắm giữ; kỳ thực không có cái gọi là khổ đau trong một
tâm thức vắng lặng, không khởi niệm, không bị ám ảnh bởi ngã tưởng.
Tự nó cơn
đau nào rồi cũng ra đi; chỉ bởi thói quen ôm ấp mà dư âm của nó cứ ám ảnh, đeo
bám ta mãi. Chính vì thế mà luận về phương pháp buông bỏ khổ đau, Buddhaghosa
nói rằng có sự thật khổ đau nhưng không có người đau khổ.2
Nhận
diện cho thật đúng về thực tại vô thường, vô ngã của hiện hữu để thiết lập một
đời sống an lạc ngay trong dòng chảy đầy biến động của cuộc đời chính là thái
độ minh triết của đạo Phật. Đó chính là quan niệm sống giải thoát an lạc ngay
trong hiện tại, nhờ đưa tâm về với thực tại hay nhờ dứt trừ mọi ý tưởng tầm
cầu, so sánh, phân biệt, phán xét, gọi chung là vọng niệm. Đây chính là lẽ sống
minh triết Phật giáo, tức là sống với những gì đang là, đang trôi chảy, với một
tâm tư hoàn toàn sáng suốt, tỉnh giác, vắng bặt mọi ý niệm phân biệt, mọi ý
tưởng vui buồn, mọi cảm giác yêu ghét.
Nói cách khác, đó chính là lẽ sống giác
ngộ, giải thoát, an nhiên tự tại của một tâm tư hoàn toàn tỉnh táo và sáng
suốt, cảm thức trọn vẹn về những gì đang diễn tiến mà không một chút vấn vương,
không một chút hệ lụy, không rơi vào ý niệm tìm cầu, suy tính thiệt hơn, hy
vọng hay thất vọng. Kinh Niệm xứ (Satipatthànasutta) gọi đó là sống không nương tựa, không chấp
trước một vật gì trên đời (anissito ca viharati na ca kinci loke upàdiyati), và đề xuất nhiều cách thức để thực nghiệm
xoay quanh bốn chủ đề:
Quán
thân trên thân, nhiệt tâm, tinh cần, tỉnh giác để diệt trừ tham ưu ở đời.
Quán thọ trên các cảm thọ, nhiệt tâm, tinh cần, tỉnh giác để diệt trừ tham ưu ở đời.
Quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tinh cần, tỉnh giác để diệt trừ tham ưu ở đời.
Quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tinh cần, tỉnh giác để diệt trừ tham ưu ở đời.
Quán thọ trên các cảm thọ, nhiệt tâm, tinh cần, tỉnh giác để diệt trừ tham ưu ở đời.
Quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tinh cần, tỉnh giác để diệt trừ tham ưu ở đời.
Quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tinh cần, tỉnh giác để diệt trừ tham ưu ở đời.
Kinh Niệm xứ gọi đó là sự tỉnh thức hay biết rõ: “Tỳ- kheo khi bước tới, bước lui, biết rõ việc mình đang làm; khi ngó tới ngó lui, biết rõ việc mình đang làm; khi co tay, khi duỗi tay, biết rõ việc mình đang làm; khi mang áo tăng-già-lê (sanghati), mang bát, mang y, biết rõ việc mình đang làm; khi ăn, uống, nhai, nếm, biết rõ việc mình đang làm; khi đại tiện, tiểu tiện, biết rõ việc mình đang làm; khi đứng, ngồi, ngủ, thức, nói, im lặng biết rõ việc mình đang làm”5.
Một
cách triết lý, Đức Phật nói về lẽ sống giải thoát, an nhiên tự tại trước mọi
thực trạng biến đổi: “Trong cái thấy sẽ chỉ là cái thấy, trong cái nghe sẽ chỉ
là cái nghe, trong cái thọ tưởng sẽ chỉ là cái thọ tưởng, trong cái thức tri sẽ
chỉ là cái thức tri”6.
Trong
một văn cảnh khác, Ngài khuyên nhắc và giải thích chi tiết cho chúng ta về cách
thức sống với thực tại an lạc.
Đó
là:
Quá khứ không truy tìm,
Tương lai không ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây.
…
Và này các Tỳ-kheo, thế nào là truy tìm quá khứ? Vị ấy nghĩ: “Như vậy là sắc của tôi trong quá khứ”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Như vậy là thọ của tôi trong quá khứ”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Như vậy là tưởng của tôi trong quá khứ”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Như vậy là hành của tôi trong quá khứ”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy, “Như vậy, là thức của tôi trong quá khứ”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này các Tỳ-kheo, là truy tìm quá khứ.
Quá khứ không truy tìm,
Tương lai không ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây.
…
Và này các Tỳ-kheo, thế nào là truy tìm quá khứ? Vị ấy nghĩ: “Như vậy là sắc của tôi trong quá khứ”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Như vậy là thọ của tôi trong quá khứ”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Như vậy là tưởng của tôi trong quá khứ”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Như vậy là hành của tôi trong quá khứ”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy, “Như vậy, là thức của tôi trong quá khứ”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này các Tỳ-kheo, là truy tìm quá khứ.
Và
này các Tỳ-kheo, thế nào là không truy tìm quá khứ? Vị ấy nghĩ: “Như vậy là sắc
của tôi trong quá khứ”, và không truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Như vậy là thọ
của tôi trong quá khứ”, và không truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Như vậy là
tưởng của tôi… Như vậy là hành của tôi… Như vậy là thức của tôi trong quá khứ”;
và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này các Tỳ-kheo, là không truy
tìm quá khứ.
Và này các Tỳ-kheo, thế nào là ước vọng tương lai? Vị ấy nghĩ: “Mong rằng như vậy sẽ là sắc của tôi trong tương lai”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Mong rằng như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương lai”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Mong rằng như vậy là tưởng của tôi… là hành của tôi… Như vậy là thức của tôi trong tương lai”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này các Tỳ-kheo, là ước vọng trong tương lai.
Và này các Tỳ-kheo, thế nào là không ước vọng trong tương lai? Vị ấy nghĩ: “Mong rằng như vậy sẽ là sắc của tôi trong tương lai”, và không truy tìm hân hoan trong ấy; “Mong rằng như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương lai”, và không truy tìm hân hoan trong ấy; “Mong rằng như vậy sẽ là tưởng… sẽ là hành… sẽ là thức của tôi trong tương lai, “và không truy tìm hân hoan trong ấy. Như vậy, này các Tỳ-kheo, là ước vọng trong tương lai.
Và
này các Tỳ-kheo, như thế nào là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? Ở đây, này
các Tỳ-kheo, có kẻ vô văn phàm phu không đi đến các bậc Thánh, không thuần thục
pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh; không đi đến các bậc Chân
nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân
nhân; quán sắc là tự ngã, hay quán tự ngã là có sắc, hay quán sắc là trong tự
ngã, hay quán tự ngã là trong sắc, hay vị ấy quán thọ là tự ngã, hay quán tự
ngã là có thọ; hay quán thọ là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong thọ, hay
vị ấy quán tưởng là trong tự ngã, hay quán tự ngã là có tưởng, hay vị ấy quán
tưởng là tự ngã, hay quán tự ngã là có tưởng, hay vị ấy quán hành là tự ngã,
hay vị ấy quán tự ngã là có hành, hay vị ấy quán hành là trong tự ngã, hay vị
ấy quán tự ngã là trong hành; hay vị ấy quán thức là tự ngã, hay quán tự ngã là
có thức, hay quán thức là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong thức. Như vậy,
này các Tỳ-kheo, là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.
Và
này các Tỳ-kheo, thế nào là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? Ở đây,
này các Tỳ-kheo, có vị Đa văn Thánh đệ tử đi đến các bậc Thánh, thuần thục pháp
các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đi đến các bậc Chân nhân, thuần thục
pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân. Vị này không quán sắc là
tự ngã, không quán tự ngã là có sắc, không quán sắc là trong tự ngã, không quán
tự ngã trong sắc; không quán thọ… không quán tưởng… không quán hành… không quán
thức là tự ngã, không quán tự ngã là có thức, không quán thức trong tự ngã,
không quán tự ngã trong thức. Như vậy, này các Tỳ-kheo, là không bị lôi cuốn
trong các pháp hiện tại”7.
Với
các định nghĩa trên thì sống giải thoát an lạc ngay trong hiện tại hay còn gọi
là sống với thực tại chính là sống với một tâm thức hoàn toàn trong sáng, vắng
lặng, không bị ám ảnh bởi ký ức quá khứ, không bị thôi thúc bởi vọng tưởng
tương lai, cũng không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại, tức là không rơi vào
ngã tưởng hay những ý nghĩ liên hệ đến tự ngã hay “tôi” khiến cho tâm thức bị
dao động, tán loạn, quay cuồng trong thế giới của các tư duy phân biệt đối đãi,
không định tĩnh, không an tịnh, không giải thoát. Nói khác đi, khi một tâm thức
rời xa mọi ý niệm phân biệt, tìm cầu, mọi hoài niệm, mọi vọng tưởng, đã trở nên
thức tỉnh và vắng lặng, đã đạt đến chỗ tịch tịnh thì bấy giờ những gì xảy ra
đều không ảnh hưởng gì đến nó. Nó là thanh thản, an nhiên tự tại, vì nó không
phản ứng, không dao động, không rơi vào luyến ái, không chống đối, độc lập,
không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy8. Ngắm nhìn dòng sông đang chảy hay
trông thấy chiếc lá đang rơi mà không động tâm suy nghĩ, ưu tư, lo lắng, hy
vọng hay thất vọng tức là sống với thực tại, là an nhiên tự tại, không có đau
khổ trong dòng biến dịch bất tận của hiện hữu.
Tóm lại, thực tại là những gì đang diễn biến, chuyển động, sinh diệt liên tục. Nó không dính dáng gì đến ý tưởng có không, hơn thua, được mất, buồn vui, lạc khổ của đầu óc con người. Tựa như dòng sông, tất cả đều chuyển biến, trôi chảy không ngừng và do vậy sống với thực tại tức là sống với những gì đang chuyển biến, đang trôi chảy, sống với cái tâm hoàn toàn tỉnh thức, vắng lặng, không ái luyến, không tìm cầu, không chấp trước, không suy nghĩ, không ước lượng, không phán xét, không so sánh hay phân biệt. “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.” Đây là lẽ sống minh triết được nhấn mạnh trong đạo Phật mà các bản kinh Trung Bộ như Niệm xứ, Nhất dạ hiền giả đã nói đến với các chỉ dẫn và giải thích chi tiết về phương pháp thực hiện.
Thực
tại cuộc đời có thể là có hoặc không, hơn hay thua, được hay mất, vui hay buồn,
lạc hay khổ tùy theo cách nhìn và ý chí của bạn; nhưng dù bạn có gọi nó là gì
đi nữa thì tất cả chỉ là một dòng trôi liên tục, không do ai tạo ra, cũng không
ai ngăn cản được. Nhận thức được như vậy thì bắt đầu thấy ra ý nghĩa và giá trị
của pháp môn Niệm xứ hay cách thức sống với thực tại được nói đến trong đạo
Phật, mới có đủ cơ sở để hiểu vì sao Đức Phật dạy quán niệm hơi thở vô hơi thở
ra một cách nhiệt tâm, tinh cần, tỉnh giác thì có thể diệt trừ được tham
(abhigijjhana) và ưu (domanassa) ở đời, cũng được gọi là tham (ràga) và sân
(patigha), tức hai loạt phản ứng thuận và nghịch của tâm thức dẫn đến khổ đau
cùng có chung cội rễ là vô minh (avijjà) hay si mê (moha), là con đường độc
nhất (ekàyano-maggo) đưa đến thanh tịnh cho chúng sinh, vượt khỏi sầu não, diệt
trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết- bàn9. Trong kinh Tương Ưng
Bộ10 có lưu một cuộc đối thoại lý thú giữa Đức Phật và vị Thiên tử Kakudha xoay
quanh kết quả lợi lạc thiết thực của pháp môn Niệm xứ hay cách thức sống với
thực tại do Đức Phật tự thân chứng nghiệm và chỉ bày. Thiên tử tên Kakudha đến
hỏi Thế Tôn, bậc Giác ngộ:
– Thưa Sa-môn, Ngài có hoan hỷ không?
– Ta được cái gì, này Hiền giả, mà Ta hoan hỷ?
– Nếu vậy, thưa Sa-môn, có phải Ngài sầu muộn?
– Ta mòn mỏi cái gì, này Hiền giả, mà Ta sầu muộn?
– Vậy thì thưa Sa-môn, Ngài không hoan hỷ và không sầu muộn?
– Thật như vậy, này Hiền giả.
– Ta được cái gì, này Hiền giả, mà Ta hoan hỷ?
– Nếu vậy, thưa Sa-môn, có phải Ngài sầu muộn?
– Ta mòn mỏi cái gì, này Hiền giả, mà Ta sầu muộn?
– Vậy thì thưa Sa-môn, Ngài không hoan hỷ và không sầu muộn?
– Thật như vậy, này Hiền giả.
Thiên
tử Kakudha:
Làm sao, này Tỳ-kheo, Ngài không có sầu muộn, Làm sao ở nơi Ngài,
Hoan hỷ không khởi lên? Làm sao nay Ngài lại, Ngồi cô độc một mình, Không có được hoan hỷ,
Làm sao, này Tỳ-kheo, Ngài không có sầu muộn, Làm sao ở nơi Ngài,
Hoan hỷ không khởi lên? Làm sao nay Ngài lại, Ngồi cô độc một mình, Không có được hoan hỷ,
Cũng không bị dao động?
Bậc
Giác ngộ:
Hoan hỷ chỉ có đến,
Với người tâm sầu muộn, Sầu muộn chỉ có đến,
Với người tâm hoan hỷ. Do vậy, vị Tỳ-kheo,
Không hoan hỷ, sầu muộn. Vậy nên, này Hiền giả,
Ông phải biết như vậy.
Hoan hỷ chỉ có đến,
Với người tâm sầu muộn, Sầu muộn chỉ có đến,
Với người tâm hoan hỷ. Do vậy, vị Tỳ-kheo,
Không hoan hỷ, sầu muộn. Vậy nên, này Hiền giả,
Ông phải biết như vậy.
Thiên
tử Kakudha:
Đã lâu, con mới thấy, Bà-la-môn tịch tịnh,
Vị Tỳ-kheo không sầu, Cũng không có hoan hỷ, Đã an toàn vượt khỏi,
Chỗ người đời đắm say.
Đã lâu, con mới thấy, Bà-la-môn tịch tịnh,
Vị Tỳ-kheo không sầu, Cũng không có hoan hỷ, Đã an toàn vượt khỏi,
Chỗ người đời đắm say.
Chú thích:
1. Chỉ cho thái độ tham và sân, tức là tham ái đối với những gì thích ý, hấp dẫn và bất mãn đối với những gì không thích ý, không hấp dẫn.
1. Chỉ cho thái độ tham và sân, tức là tham ái đối với những gì thích ý, hấp dẫn và bất mãn đối với những gì không thích ý, không hấp dẫn.
2.
Thanh tịnh đạo luận, Chương XVI: Mảnh đất cho tuệ tăng trưởng.
3.
Kinh Thân hành niệm, Trung Bộ.
4.
Kinh Kaccayanagotta, Tương Ưng Bộ.
5.
Kinh Niệm xứ, Trung Bộ.
6.
Kinh Phật tự thuyết, Tiểu Bộ.
7.
Kinh Nhất dạ hiền giả, Trung Bộ.
8.
Kinh Bất đoạn, Trung Bộ.
9.
Kinh Niệm xứ, Trung Bộ.
10.
Kinh Kakudha, Tương Ưng Bộ.
Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo