Trong thực tế, bản chất của sáu trần vốn không có lỗi. Cái lỗi lớn nhất
là do tâm phân biệt, thương ghét, vọng tưởng điên đảo của con người. Con người
vì đắm nhiễm, dính mắc sáu trần mà gây ra nỗi khổ, niềm đau, nên mãi trôi lăn
trong luân hồi sanh tử.
Tục
ngữ Việt Nam có câu: Thứ nhất tu nhà, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa. Câu nói
này dân gian cho rằng tu tập tại gia là việc dễ nhất, bởi vì các thành viên
trong gia đình đều là những người thân yêu, nên mọi việc đều có thể cảm thông
và tha thứ hơn, dễ bỏ qua những lỗi lầm sai trái, như cha mẹ thương con, vợ
chồng thương yêu, anh chị em vui vẻ thuận thảo với nhau.
Nhưng
thực chất tu ở chùa là dễ dàng nhất, bởi vì không phải lo chuyện tính kế sinh
nhai, không bận rộn hay bị tiêm nhiễm chuyện thế gian, có thầy lành bạn tốt
sách tấn đồng tu. Còn tu tập tại gia là việc khó khăn nhất, bởi vì người trong
gia đình quá quen thuộc, cho nên dễ lờn mặt, khó tu khó sửa, tình cảm luyến ái
nặng nề, không người nhắc nhở, khuyến khích tu tập, do đó mà bụt nhà không
linh, không thiêng là vậy đó.
Hơn
nữa cuộc sống thế gian của người tại gia, đủ thứ cám dỗ, và rất nhiều cái bẫy
đang giăng sẵn chực chờ nào là bẫy tiền tài, bẫy danh vọng, bẫy sắc đẹp, bẫy ăn
ngon, mặc đẹp, ngủ nhiều, vã lại với đủ thứ phiền não, khổ đau cuộc đời, suốt
ngày bận rộn với công kia việc nọ, không có thời giờ, thì thử hỏi làm sao tu
được?
Tu
chợ so với tu nhà thì ít khó hơn, bởi vì mỗi ngày chỉ đi chợ chừng một tiếng
đồng hồ là nhiều, có khi mỗi tuần chỉ đi chợ năm ba ngày, tu ngoài chợ chỉ cần
nhỏ nhẹ, tế nhị, bán đúng giá thuận mua vừa bán, thường thì người mua dễ bị lầm
hơn.
Vậy
theo quan niệm nào mới thật sự là đúng? Thật ra mỗi chỗ mỗi nơi đều có cái khó
riêng của nó, ai có duyên tu trong điều kiện nào thì chỗ đó là số một.Tu chợ,
tu tại gia rất cần thiết cho đại đa số quần chúng bởi vì nó là nhân tố nền tảng
đối với gia đình và xã hội. Nói tóm lại, bất cứ hoàn cảnh nào, dù dễ hay khó,
chúng ta phải cố gắng tu vì đó là quyền lợi của bản thân, mình không biết tu
thì sẽ gánh chịu hậu quả khổ đau, tu được thì mình sẽ an lạc, hạnh phúc!
Phật
dạy yêu thương xa lìa khổ, oán ghét gặp nhau khổ, mong cầu không được như ý
khổ.Nhờ có khổ như vậy nên chúng ta mới đến chùa tìm hiểu học hỏi, mong sao để
được hết khổ.Nhưng phần đông rơi vào tình trạng lấy cảnh chùa làm nơi trốn
tránh cuộc đời, trốn tránh trách nhiệm, bổn phận đối với gia đình người thân.
Cuộc
sống thế gian có quá nhiều đau khổ nay mình biết chùa muốn tu, muốn dứt bỏ gia
đình người thân, nhưng không ai cho phép? Nhiều người muốn vào chùa thọ bát
quan trai một ngày một đêm nhưng gia đình không cho phép.
Ở
đây chúng đang thấy một sự thật, vì mỗi khi trong gia đình có sự bất hòa thì
phần lỗi ít nhiều gì đó đều do hai bên, không biết thông cảm cho nhau, không
thực sự thương yêu nhau.
Tu
học là nhằm mục đích để tỉnh thức, nhận ra những điều sai lầm mà trước đây mình
không hề hay biết.Ai cũng muốn thương và được thương yêu một cách bình
đẳng.Ngày nay, vợ chồng ly dị là chuyện thường. Sống chung mà không biết thương
yêu nhau, chỉ làm khổ nhau thì tốt hơn là nên ly dị. Nhưng nhiều khi ly dị xong
ta lại cảm thấy cô đơn, muốn đi tìm một người tình khác để yêu, để cưới và để
rồi lại ly dị.
Nhiều
lúc khổ quá, muốn đi tu, nhưng tu làm sao cho yên khi tình cảm dành cho nhau
vẫn còn ướt át?Và chúng ta nên nhớ tu không phải là dứt hết tình nghĩa, mà là
thay đổi quan niệm sống để không quá bi lụy trong tình yêu.Nếu chúng ta dứt hết
tình cảm thì đâu còn là người nữa, tu như vậy vô tình ta ví mình như gỗ đá
chăng?
Tu
là sửa, là chuyển, là thay đổi. Từ đau khổ chuyển thành an vui, từ tình thương
yêu ích kỷ, thành tình thương yêu bình đẳng, vị tha. Vào chùa học đạo mà chỉ
biết thương Phật tượng, Phật gỗ mà không biết thương yêu kẻ khác thì đó chưa
phải là người tu chân thật.Phật là người đại từ, đại bi thương tất cả chúng
sinh một cách bình đẳng mà không phân biệt thân hay sơ.
Cuộc
sống của chúng ta khi có mặt trên cõi đời này là phải ăn với uống để bảo tồn
mạng sống, lớn lên rồi lấy vợ, lấy chồng để phát triển giống nòi nhân loại. Từ
đó sinh chấp ngã và muốn chiếm hữu để bảo vệ gia đình mình, đất nước mình,
người có quyền cao chức trọng nếu không tin sâu nhân quả sẽ tham nhũng làm lãng
phí, gây thiệt hại trầm trọng tài sản của chung.
HẠNH
PHÚC HAY KHỔ ĐAU ĐỀU DO MÌNH TẠO LẤY
Khi
buồn khổ hay bất an một điều gì, chúng ta hay đổ thừa vì hoa hồng có
gai, nhưng khi vui vẻ hay hạnh phúc chúng ta lại thấy hoan hỉ vì trên cành
gai kia xuất hiện một đóa hoa hồng.Thế gian này khổ hay vui tùy thuộc rất nhiều
từ sự nhận thức của mọi người.
Chúng
ta muốn thưởng thức những đóa hồng đẹp thì phải chấp nhận thân gai góc của nó.
Hoa hồng mềm mại, thơm tho và đẹp đẽ nên ai cũng thích ngắm nhìn, thưởng thức
hương vị ngọt ngào của nó nhưng trên thân hoa lại có nhiều gai góc. Nếu muốn
thưởng thức sự tinh khiết của hoa thì ta phải chấp nhận thân gai góc. Cũng vậy,
thân ta vô thường bại hoại nên mới bị sự chi phối của già-bệnh-chết, nhưng ngay
nơi thân này có tính biết sáng suốt; nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không
lầm lẫn, thấy chỉ là thấy, thấy tức biết; nương nơi tai thì nghe thấu mọi âm
thanh sai biệt của muôn loài vật nên nghe chỉ là nghe; mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại
như thế.
Người
lạc quan luôn nhìn đời với các vì sao lấp lánh nằm trên bầu trời quang đãng,
sáng trong. Chính vì vậy họ thấy thế giới luôn tươi vui, xinh đẹp như những đóa
hoa hồng.Người bi quan thì thấy thế giới là cả một bầu trời đen tối chỉ toàn
khổ đau nên thấy rất nhiều hầm hố, chông gai.Với người biết sống một cách thực
tế thì thấu rõ chân lý của cuộc đời nên thấy thế giới không hoàn toàn tươi vui,
xinh đẹp như hoa hồng mà cũng chẳng hoàn toàn nhiều gai góc.
Trong
cuộc sống những ai có hiểu biết chân chính và nhận thức sáng suốt thì không đam
mê, say đắm bởi cái đẹp của hoa hồng. Họ nhìn thấy hoa hồng chỉ là hoa hồng và
vẫn biết rõ trong hoa hồng phải có chất liệu của gai nên luôn cẩn thận để khỏi
bị gai làm đau nhức.
Hoa
hồng tượng trưng cho bốn hoàn cảnh thuận lợi trong cuộc sống như được lợi lộc,
được khen ngợi, được tán thán và được vui vẻ hạnh phúc.Gai góc thì được ví như
bốn sự không hài lòng, vừa ý trong cuộc sống như bị mất mát, bị chê bai, bị hủy
nhục và bị khổ đau. Đã làm người trong cuộc sống tất cả chúng ta đều phải trực
diện với các hoàn cảnh ấy dù ít hay nhiều trong dòng đời nghiệt ngã này. Ai có
đủ khả năng, ý chí, nghị lực, trí tuệ và sự sáng suốt thì sẽ vượt qua cạm bẫy
cuộc đời bằng cách tin sâu nhân quả, siêng làm các việc thiện, không làm việc
xấu ác.
HIỂU
BIẾT CHÂN CHÍNH SẼ GIÚP TA SỐNG HẠNH PHÚC HƠN
Cuộc
sống của chúng ta khi có mặt trên cõi đời này là phải ăn với uống để bảo tồn
mạng sống, lớn lên rồi lấy vợ, lấy chồng để phát triển giống nòi nhân loại. Từ
đó sinh chấp ngã và muốn chiếm hữu để bảo vệ gia đình mình, đất nước mình,
người có quyền cao chức trọng nếu không tin sâu nhân quả sẽ tham nhũng làm lãng
phí, gây thiệt hại trầm trọng tài sản của chung.
Có
khi nào trong cuộc sống với bộn bề công việc, ta biết dừng lại để tự hỏi chính
mình sinh ra đời để làm gì?Chắc chắn ai cũng nói rằng để lập gia đình, sinh con
đẻ cái nối dõi tông đường?Ðể gầy dựng sự nghiệp tương lai cho bản thân và gia
đình? Từ quan niệm đó chúng ta chạy theo tiền tài, danh lợi, địa vị, tình yêu,
sắc đẹp, của cải, và ăn sung mặc sướng!
Thật
chất ta lớn lên lấy vợ lấy chồng không phải để thỏa mãn tình cảm nhục dục hay
lấp vá khoảng trống cô đơn, mà là để học sự thương yêu trong hiểu biết và biết
cách hòa hợp của hai trái tim, khi sống chung với nhau trong một mái ấm gia
đình.
Tất
cả mọi người trên thế gian này ai cũng phải điều biết "tu tâm", nghĩa
là chúng ta chừa bỏ những tâm niệm xấu ác có tính cách làm tổn hại cho người và
vật.Nhờ vậy, chúng ta ngày càng mở rộng tấm lòng từ bi rộng lớn, để san sẻ nỗi
khổ niềm đau, làm vơi bớt sự bất hạnh và sống tốt hơn, bằng tình người trong
cuộc sống.
Con
người có tu mới sống được an vui hạnh phúc và khi gặp cảnh mất mát khổ đau của
bản thân và gia đình, cũng không làm cho ta phải thất chí nản lòng vì ta đã có
niềm tin nhân quả, niềm tin chính mình, hạnh phúc hay khổ đau là do mình tạo
lấy. Chúng ta đã gieo nhân trước kia thì giờ đây gặt quả, trồng dưa được dưa,
trồng đậu được đậu, kết quả tốt hay xấu khi hội đủ nhân duyên quả báo liền đến.
Chúng
ta tu để làm gì? Và tu như thế nào để cho được an vui, hạnh phúc? Người đời làm
việc xấu ác, vì không tin tâm mình là Phật. Con cái không hiếu thảo cha mẹ, vì
không tin sâu nhân quả.Trẻ em không chịu vâng lời thầy cô giáo chỉ dạy, không
siêng năng chăm chỉ học hành, vì chẳng biết tu tâm.Gia đình sống không vui vẻ
thuận thảo, không biết kính trên nhường dưới, vì chẳng biết tu tâm. Xã hội hay
nói nặng, mắng chửi kiện cáo nhau vì chẳng biết tu tâm. Thế giới đấu tranh tham
lam giành giựt giết hại lẫn nhau, vì chẳng biết tu tâm.
Phật
tử tu hành hay bị thối chuyển, bởi vì hay cầu khẩn van xin không tin tưởng
chính mình ỷ lại vào bên ngoài. Mọi người ai cũng có khả năng nhận diện tâm qua
sự xúc chạm thấy nghe hay biết, mới có thể trở nên hiền từ, sống chân thật, đạo
đức và biết giúp đỡ, sẻ chia bằng tình người trong cuộc sống.
Gia đình người thân biết tu tâm, thì mới được bình yên, an vui, hạnh phúc. Xã hội có tu tâm, thì đất nước mới an cư lạc nghiệp trên tinh thần đoàn kết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim hiểu biết.
Gia đình người thân biết tu tâm, thì mới được bình yên, an vui, hạnh phúc. Xã hội có tu tâm, thì đất nước mới an cư lạc nghiệp trên tinh thần đoàn kết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim hiểu biết.
Thế
giới ai cũng biết tu tâm, thì mọi người sống trong hòa bình.Phật tử biết tu
tâm, mới mau vượt qua biển khổ sông mê. Và Phật dạy không thấy ai là kẻ thù chỉ
có người chưa thông cảm với nhau mà thôi, cho nên chúng ta phải bình đẳng
thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau, bằng trái tim hiểu biết.
Một người biết làm lành, tránh xa những điều xấu ác thì người ấy trở nên hiền từ và đức độ.Cả gia đình đều tránh dữ làm lành, thì mọi người đều được bình yên, hạnh phúc.Cả nước đều tránh giữ làm lành thì tất cả mọi người đều sống trong an lạc thái bình.Hết thảy mọi người đều tránh dữ làm lành, thì chúng ta sẽ sống trong thế giới đại đồng, hưởng trọn vẹn niềm vui cực lạc.
Một người biết làm lành, tránh xa những điều xấu ác thì người ấy trở nên hiền từ và đức độ.Cả gia đình đều tránh dữ làm lành, thì mọi người đều được bình yên, hạnh phúc.Cả nước đều tránh giữ làm lành thì tất cả mọi người đều sống trong an lạc thái bình.Hết thảy mọi người đều tránh dữ làm lành, thì chúng ta sẽ sống trong thế giới đại đồng, hưởng trọn vẹn niềm vui cực lạc.
Trong
cuộc sống của chúng ta ai cũng mong cầu hạnh phúc nên suốt đời cứ mãi tìm kiếm
để vượt qua hai điều thiếu thốn: Thứ nhất là thiếu thốn về vật chất và thứ hai
là thiếu thốn về tinh thần. Người thiếu thốn về vật chất thì cơm không đủ ăn,
áo không đủ mặc, có khi không nhà cửa hoặc có thì với túp lều lụp sụp, thân
phải khổ sở nhọc nhằn làm thuê làm mướn, đầu tắt mặt tối mà nợ nần vẫn chồng
chất.
Người
thiếu thốn về tinh thần thì tham lam, ích kỷ, gian xảo, dối trá, ganh ghét tật
đố, lường gạt, đầu trộm đuôi cướp gây ra nhiều tội lỗi làm tổn hại đến gia đình
người thân và xã hội. Thế gian con người chi lo thiếu thốn về vật chất, mà ít
ai nghĩ ngợi và lo lắng đến tinh thần!
LÀM
CHỦ BẢN THÂN ĐỂ VƯỢT QUA SỐNG CHẾT
Trong
kinh A Di Đà, Phật nói rõ ràng, ai tu nhất tâm bất loạn từ một ngày cho đến bảy
ngày, thì Phật sẽ rước. Đạo Phật là đạo của nhân quả trên nền tảng tương xứng,
bình đẳng, chúng ta không thể lấy một chút phước nhỏ mà đòi quả lớn thì e rằng
không được.
Phật
dạy người có nhiều đức tính tốt thường xuyên làm lợi ích cho nhân loại đó là
bậc thầy ta, ta hãy nên bắt chước học và làm theo những cái hay của họ. Người
khác có cái dở hơn ta cũng là bậc thầy của ta, cho nên ta cũng phải học để
không mắc phải sai lầm. Thầy hay, chúng ta bắt chước học và làm theo, thầy dở,
chúng ta học để tránh không gây ra những lỗi lầm đáng tiếc.
Cũng
vậy, khi phát tâm tu hành, người trợ giúp phương tiện để ta tiến tu là bậc
thiện hữu tri thức, còn người làm chướng ngại gây phiền hà cho ta cũng chỉ để
thử thách coi mình tu có tiến hay không mà thôi. Người giúp phương tiện chỉ dạy
là sách tấn mình tu từ từ, người làm trở ngại để thử thách sẽ giúp mình thăng
tiến nhanh hơn, cả hai đều là Bồ Tát thuận hạnh và nghịch hạnh để giúp mình
tiến tu, nên trong hai người ta đều phải mang ơn hết.
Chỉ
có người hèn yếu, không dám can đảm nhìn rõ mọi vấn đề cho tường tận, tu gặp
nghịch cảnh, chướng duyên, lẽ ra phải tìm cách thắng nó cho bằng được, thì lại
không hài lòng, vừa ý. Mình tu là phải quyết tâm mạnh mẽ để không cho sân-si
nổi lên mới thực là tu.
Hiểu
như vậy, ta mới thấy mình tu có tiến được hay không là do cách nhìn của mình có
thực đúng như lời Phật dạy, nếu nhìn không đúng thì việc tu hành cũng bị lệch
lạc theo thời gian. Người phát tâm tu ai cũng muốn chuyển hóa tham-sân-si thành
vô lượng trí tuệ từ bi. Vậy mà đa số người tu khi gặp chướng duyên cứ trách móc
thiên hạ, đổ thừa hoàn cảnh, “tôi muốn tu mà ma quỷ cứ phá tôi hoài”, chứ không
biết chính mình không thật tu, hoặc tu còn quá yếu, nên phiền não, tham- sân-si
còn hoài. Nếu nói theo đạo lý chân thật thì thế gian này không ai có thể phá
mình cả, chỉ có ta tự làm cho ta lui sụt mà thôi.
Trong
cuộc đời này không có cái gì ở bên ngoài hại ta cả, chỉ có mình không làm chủ
được bản thân. Nếu biết rõ ràng mọi thứ tai họa từ tham-sân-si nơi mình chứ
không phải do ai khác, thì ta sẽ biết cách chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành
an lạc, hạnh phúc.
Khi
Phật còn tại thế, một ngoại đạo đã chứng được ngũ thông, giảng pháp rất hay,
đến nỗi trời Đế Thích phải xuống nghe. Pháp thoại vừa xong, trời đế Thích mới
khóc, vị ngoại đạo ấy hỏi nguyên do. Đế Thích nói, “thầy đã sắp hết tuổi thọ,
nên tôi rất lấy làm tiếc nuối mà khóc thương cho thầy thôi”.Vị đó nghe vậy mới
hỏi tiếp, “có ai ở trần gian này có thể giúp tôi thoát ly sinh tử không?”Đế
Thích nói, “thầy hãy đến tịnh xá Kỳ Viên gặp Phật Đà, Người sẽ làm được điều
đó”.Mừng quá, ông cám ơn trời Đế Thích, rồi vận thần thông bay đi. Trên
đường gần tới tịnh xá, ông thấy hai cây hoa đẹp quá, liền nhổ chúng đến cúng
dường Phật. Khi thấy ông đến, hai tay cầm bó hoa, Phật liền bảo, “buông!”. Ông
ta buông tay trái, bó hoa rớt xuống đất. Phật lại bảo, “buông!”. Ông ta buông
tay phải, bó hoa kia cũng rớt xuống đất. Phật lại bảo buông tiếp. Ông ta ngơ
ngác đứng nhìn và thưa rằng, “bạch Thế Tôn, con đã buông cả hai tay rồi, còn gì
nữa đâu mà buông?”
Nhân
khi đó, Phật dạy, “Như Lai bảo ông buông lần thứ nhất là dạy ông buông bỏ sáu
căn, lần thứ hai Như Lai dạy ông buông bỏ sáu trần, lần thứ ba Như Lai dạy ông
buông bỏ sáu thức”. Ngay câu nói đó, vị ngoại đạo liền được thoát ly sinh tử,
không còn sống chết nữa.
Chỉ
đơn giản vậy thôi, Phật chỉ bảo ba lần buông làm cho ông ngơ ngác, vì trên tay
chỉ có hai bó hoa. Ông đang thao thức tìm cách giải thoát sống chết, nên bao
nhiêu tâm trí đều dồn vào đó, Phật chỉ khơi nhẹ làm ông tỉnh thức, buông xả ý
thức chấp ngã mà thành tựu Niết Bàn.
Ngoại đạo đó đã tu chứng ngũ thông, tức gần kề bên bờ giải thoát, nhưng do còn ý thức chấp ngã, thấy mình có tu, có chứng, nên còn dính mắc, không thể thoát khỏi sống chết. Nhờ Phật khai thị, ông ta buông xả kiến chấp, liền thoát ly sống chết.
Ngoại đạo đó đã tu chứng ngũ thông, tức gần kề bên bờ giải thoát, nhưng do còn ý thức chấp ngã, thấy mình có tu, có chứng, nên còn dính mắc, không thể thoát khỏi sống chết. Nhờ Phật khai thị, ông ta buông xả kiến chấp, liền thoát ly sống chết.
Người
chứng ngũ thông có những diệu dụng như sau:
_
Tha tâm thông: là thấy biết được tâm tư của người khác đang suy nghĩ và mong
muốn gì.
_
Thiên nhãn thông: là thấy được tất cả chúng sinh luân hồi sống chết, thăng lên
lộn xuống trong ba cõi sáu đường, như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư
đường, nghiệp quả do chính mình tạo lấy, mình làm lành được hưởng phước, mình
làm ác chịu khổ đau, không ai có quyền ban phước, giáng họa.
_
Túc mạng thông: nghĩa là nhớ lại được vô số kiếp về trước mình đang làm gì, ở
đâu?
_
Thần túc thông: là biến hóa khôn lường, có thể chui vào lòng đất, bay lên hư
không, mà không bị sự ngăn ngại nào.
_Thiên
nhĩ thông: nghe được âm thanh lớn nhỏ, gần xa.
Mắt ta thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý phân biệt, cái gì thích thì bám víu, chạy theo, cố tâm tìm cách chiếm đoạt, cái gì không ưa thì ghét bỏ. Đối với người Phật tử, mắt cũng cần thấy mọi hình ảnh, sự vật, tai cũng cần nghe mọi âm thanh lớn nhỏ, êm dịu, hoặc hằn học, nặng nề, tuy vẫn thấy nghe, hay biết, nhưng không bị nó làm nhiễm ô, say đắm, mê muội.
Mắt ta thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý phân biệt, cái gì thích thì bám víu, chạy theo, cố tâm tìm cách chiếm đoạt, cái gì không ưa thì ghét bỏ. Đối với người Phật tử, mắt cũng cần thấy mọi hình ảnh, sự vật, tai cũng cần nghe mọi âm thanh lớn nhỏ, êm dịu, hoặc hằn học, nặng nề, tuy vẫn thấy nghe, hay biết, nhưng không bị nó làm nhiễm ô, say đắm, mê muội.
Đạo
Phật khuyên chúng ta không nên dính mắc, đắm say quá đáng vào thấy nghe, hay
biết, để được bình yên, hạnh phúc. Trong thực tế, bản chất của sáu trần vốn
không có lỗi. Cái lỗi lớn nhất là do tâm phân biệt, thương ghét, vọng tưởng
điên đảo của con người. Con người vì đắm nhiễm, dính mắc sáu trần mà gây ra nỗi
khổ, niềm đau, nên mãi trôi lăn trong luân hồi sanh tử.
Mắt
vẫn thấy sắc mà thường biết rõ ràng, sự việc như thế nào thì thấy biết như thế
ấy; tai vẫn nghe tất cả mọi âm thanh, nhưng không khởi tâm phân biệt, vừa ý hay
không vừa ý, mà nghe chỉ là nghe; mũi vẫn ngửi mùi thơm hôi đều không khen chê
hay đắm nhiễm; đó là ta biết cách làm chủ bản thân qua sáu giác quan để sống đời
bình yên, hạnh phúc.
Kế đến, chúng tôi dẫn kinh Lăng Nghiêm để làm niềm tin cho tất cả quý vị hiểu rõ ràng, thấu đáo, mà áp dụng hành trì, chuyển hoá. Tôn giả A-Nan hỏi Phật, “ bạch Thế Tôn, cái gì là căn bản của luân hồi sanh tử, cái gì là căn bản của Bồ Đề Niết Bàn?”
Khi
Ngài hỏi câu này, đức Phật Thích-ca chưa trả lời, thì mười phương chư Phật khác
miệng đồng lời nói rằng, “Này A-nan, cội gốc của căn bản phiền não, luân hồi
sanh tử chính là sáu căn của ông. Cội gốc của Bồ Đề Niết Bàn cũng chính là sáu
căn của ông”. Rõ ràng, không riêng gì đức Phật Thích Ca nói sáu căn là gốc của
luân hồi sanh tử, sáu căn là gốc của Bồ Đề Niết Bàn, mà mười phương chư Phật
khác đều miệng đồng lời phát ra những lời lẽ chân thật như thế.
Do
đó, chúng ta tu phải làm sao để chính mình dứt hết gốc luân hồi sanh tử, mà đạt
được tự tại, giải thoát. Muốn vậy, ta phải làm sao? – phải không cho ý nghĩ
dong duỗi, chạy Đông, chạy Tây, đó là gốc của sự tu; còn nếu ta vẫn bị phiền
não kéo lôi, vẫn đi trong luân hồi sanh tử, thì sự tu đó không có công hiệu.
Như vậy là uổng cơm của đàn na thí chủ. Muốn cho có công hiệu, không uổng cơm
của đàn na tín thí, thì ta phải biết rõ sáu căn là cội gốc của sanh tử, đừng để
cho nó dính, đừng để cho nó nhiễm.
Có
thế, chúng ta mới đúng là người tu cầu giải thoát sanh tử.
Sáu căn từ đâu mà ra? - Nó sẵn có nơi chúng ta, mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý ở ngay thân mình chớ có xa đâu, chỉ cần đừng để dính nhiễm là ta đã khéo tu rồi. Nếu chúng ta ăn chay khắc khổ, tụng kinh rất nhiều, mà hễ ai động tới liền nổi sân, thấy cái gì đẹp thì ưa thích, tu như vậy biết chừng nào mới thành tựu đạo pháp.
Sáu căn từ đâu mà ra? - Nó sẵn có nơi chúng ta, mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý ở ngay thân mình chớ có xa đâu, chỉ cần đừng để dính nhiễm là ta đã khéo tu rồi. Nếu chúng ta ăn chay khắc khổ, tụng kinh rất nhiều, mà hễ ai động tới liền nổi sân, thấy cái gì đẹp thì ưa thích, tu như vậy biết chừng nào mới thành tựu đạo pháp.
Mắt
thấy sắc đẹp liền mê thích, đắm say; tai nghe tiếng không vừa ý liền sinh bực
bội; như vậy là chưa gỡ được các căn dính với các trần, chưa gỡ được thì làm
sao chúng ta giải thoát sanh tử; nên trên đường tu, chúng ta phải cố gắng, nỗ
lực, phải làm sao gặp cảnh buồn vui, tốt xấu, mình vẫn an nhiên, tự tại. Đó mới
là giải thoát thật sự. Nếu chỉ có hình thức, không giữ được sáu căn của mình,
thì khó giải thoát. Kính mong rằng, tất cả chúng ta ai cũng ý thức việc tu hành
của mình, bằng cách làm chủ bản thân ngay nơi thân-miệng-ý.
THIÊN
ĐƯỜNG ĐỊA NGỤC CÓ THẬT KHÔNG?
Nhìn
từ góc độ thực tế, chúng ta thấy cũng có địa ngục trần gian, ai phạm tội giết
người thì bị xích lại nhốt vào ngục tối, nặng nhất là án tử hình. Tội nhân bị
án này sẽ ăn không ngon, ngủ không yên, ngày đêm cứ phập phồng lo sợ không biết
thần chết đến lúc nào để rước mình đi, khi nghe tiếng mở cửa là sợ điếng cả hồn
vì ai cũng tham sống, sợ chết.
Một ngày
trôi qua là họ mừng một ngày vì vẫn nuôi hy vọng được sống để làm lại cuộc đời.
Còn những án khác từ án chung thân đến án khổ sai từ một tháng cho đến hai chục
năm và nhẹ nhất là hưởng án treo. Nhìn từ góc độ triết lý học Phật giáo, chúng
ta thấy vô vàn, vô số địa ngục khác như các bệnh viện phòng cấp cứu, các nhà
bếp của mỗi gia đình, các quán nhậu, các lò sát sanh, các chợ bán thịt cá, heo,
bò, gà, vịt, các loài hải sản và cuối cùng là các nhà lưới bẫy đánh bắt.
Mỗi
một ngày, vô số các loài bị phanh da xẻ thịt để cung cấp phục vụ cho loài
người. Nhìn ở góc độ địa ngục trần gian, chúng ta còn có thể hình dung địa ngục
trong tâm thức mỗi người, đó là tâm toan tính hại người, hại vật hoặc bị phiền
não chi phối gọi là địa ngục tâm thức. Người tu nếu đạt đến giác ngộ giải thoát
thì tâm sẽ an nhiên, tự tại dù thân có bị hành hạ, đau nhức chi phối.
Loài
ngạ quỷ là loài quỷ đói thấy thức ăn mà ăn không được bởi nghiệp tham lam, ích
kỷ, bỏn sẻn chiêu cảm. Nhìn từ góc độ cuộc đời, ta thấy ngạ quỷ cũng có trong
loài người thiếu ăn, nghèo đói, thèm khát, ham muốn quá đáng mà không được nên
khổ đau bức bách.
Quỷ
đói không phải có trong người nghèo khổ mà cả người giàu có vì tham vọng quá
lớn, không được như ý muốn cũng vẫn phải chịu khổ như thường.
Loài súc sinh của thời kỳ cổ đại được sống tự do, thoải mái trên những núi đồi thiên nhiên bạt ngàn, xanh tươi, màu mỡ, ít bị loài người sát hại. Một số loài súc sinh phải chịu ảnh hưởng phước báu của con người nên con vật nào được người thương thì cuộc sống có phần thoải mái, ngược lại thì bị người giết hại.
Con
người thuần hóa các loài vật để phục vụ cho mình như lạc đà, lừa, ngựa, trâu,
bò để chuyên chở và cày bừa. Việc săn bắn, đánh bắt, giăng bẫy các loài thú tuy
có nhưng không đáng kể và việc nuôi thú để làm thực phẩm cho con người cũng
không có nhiều.
Tuy
nhiên, thế giới con người ngày nay quá đông nên nhu cầu đánh bắt loài vật không
đủ sức cung phụng cho loài người, do đó con người phải tự nuôi thêm các loài
gia cầm, súc vật theo công nghệ hiện đại để đủ đáp ứng nhu cầu thực phẩm. Ngoài
ra, các loài vật cũng chịu sự ăn nuốt lẫn nhau, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ nên
luôn sống trong khổ đau, lầm lạc.
Năm loài cùng nêu trên có hai loài là chư Thiên va thần Atula có phước sung mãn hơn người nhưng lo thụ hưởng nên không có điều kiện tu tập; ba loài dưới người thuộc đẳng cấp thấp hèn nên không có văn hóa, không có tình người; loài người do biết suy nghĩ, cảm nhận được sự khổ đau và hạnh phúc nên có điều kiện tư duy, quán chiếu, soi sáng mọi việc bằng nhận thức sáng suốt, có học hỏi, có tu tập, có văn minh, có hiểu biết, có yêu thương, có cảm thông, có bao dung, có độ lượng, có tha thứ và cùng san sẻ cho nhau nên loài người có đủ khả năng tu hành thành Phật.
Đó
là ưu điểm của loài người, năm loài kia không thể thành tựu Phật đạo, chính vì
vậy đức Phật mới giáng sinh nơi loài người. Theo lời Phật dạy, thế gian này có
năm loài cùng chung ở, hay gọi là sáu đường sống chết-luân hồi, có hai loài
chúng ta thấy biết dễ dàng nhất là thế giới của loài người và súc sinh, bốn
loài còn lại chúng ta có thể nhìn bằng trực giác hay tuệ giác của Phật mới biết
rõ sự hiện hữu ngay nơi cuộc sống của mình.
Thích Đạt Ma Phổ Giác