Tứ niệm xứ
Danh từ satipatthàna được định nghĩa
như sau:
Có nghĩa là: cái gì được kiên cố thiết
lập, vững chắc áp đặt, vào là "niệm xứ", nền tảng của niệm; công phu
"chú niệm" tự chính nó là một niệm xứ như vậy.
Có bốn Niệm Xứ:
1. (Thân Quán Niệm Xứ),
2. (Thọ Quán Niệm Xứ)
3. (Tâm Quán Niệm Xứ),
4. (Pháp Quán Niệm Xứ).
1. Thân Quán Niệm Xứ, vắn tắt gọi Niệm
Thân, là sự chú niệm kiên cố áp đặt vào những hiện tượng của thân, như hơi-thở-vào
và hơi-thở-ra.
2. Thọ Quán Niệm Xứ, vắn tắt gọi Niệm
Thọ, là sự chú niệm kiên cố áp đặt vào những cảm thọ.
3. Tâm Quán Niệm Xứ, vắn tắt gọi Niệm
Tâm, là sự chú niệm kiên cố áp đặt vào những tư tưởng hay những tiến trình tâm,
như ý nghĩ liên hợp hoặc không liên hợp với khát vọng.
4. Pháp Quán Niệm Xứ, vắn tắt gọi Niệm
Pháp, là sự chú niệm kiên cố áp đặt vào những hiện tượng như những chướng ngại
tinh thần pháp triền cái) v.v...
Trong bốn niệm xứ nếu niệm, hay chú
tâm ghi nhận, được kiên cố áp đặt trên một phần của thân, như hơi-thở-ra và
hơi-thở-vào chẳng hạn, điều đó hàm xúc ý nghĩa là sự chú tâm đã được vững chắc
thiết lập trên tất cả. Như vậy bởi vì ta đã có khả năng đặt sự chú tâm vào bất
luận nơi đâu trong thân.
"Vững chắc thiết lập" có
nghĩa là nếu muốn đặt sự chú tâm vào hơi-thở-ra và hơi-thở-vào trong một giờ,
ta có thể an trụ tâm vững chắc vào hơi thở trọn thời gian ấy. Nếu muốn giữ tâm
an trụ vào hơi thở trong hai giờ, ta có thể giữ tâm vững chắc áp đặt vào hơi thở
trong hai giờ. Không có lúc nào tâm chú niệm rời khỏi đề mục bởi vì chi thiền Tầm
không ổn định vững chắc.
Tại sao ta phải vững chắc gom tâm an
trụ và kiên cố áp đặt trên đề mục như hơi-thở-ra và hơi-thở-vào, không thể sơ
khuyết? Là bởi vì ta cần phải tập trung tư tưởng để canh chừng và kiểm soát lục
thức, vốn nhanh chóng bay nhảy và trôi giạt bềnh bồng một cách bất định từ quá
khứ xa xôi không thể quan niệm, trong vòng luân hồi vô tận.
Sư xin nói rõ thêm. Tâm có thói quen
chạy rong từ đầu nầy sang đầu kia quanh quẩn tới lui sáu trần cảnh, khởi hiện ở
sáu căn môn.
Sư lấy một thí dụ, như trường hợp anh
chàng kia mất trí, không thể kiểm soát tâm mình. Chí đến giờ ăn cơm anh cũng
không nhớ mà cứ mãi thênh thang rong rỗi đầu nầy đầu kia, cha mẹ phải đi tìm, gọi
về ăn. Rồi sau khi ăn năm sáu miếng thì anh lật úp chén lại, bỏ đi, không dùng
hết bửa. Anh chàng lãng trí đến mức độ như vậy. Ăn uống cũng không biết dùng
cho đủ no. Khi nói chuyện anh cũng không thể nói hết trọn câu. Nói đầu quên
đuôi, đang chuyện nầy bắt sang câu chuyện khác. Ðoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối
của một câu không phù hợp với nhau. Nói không ai hiểu. Anh chàng không thể làm
gì hữu ích trên thế gian nầy, và không ai biết anh muốn gì. Anh không thể hoàn
tất một công việc gì. Người như thế không thể được xem là một chúng sanh trong
cảnh người, sống cũng như không.
Anh chàng mất trí ấy có thể trở lại
bình thường, với tinh thần ổn kiện, nếu anh gặp một vị lương y tâm thần tài giỏi,
chữa bịnh cho anh với những phương pháp nghiêm nhặt. Ðược chữa trị như vậy, dần
dần anh chàng có thể trở lại đời sống bình thường, đến bửa có thể ăn uống no bụng.
Trong những công việc khác hằng ngày anh cũng có thể kiểm soát tâm và hoàn
thành đến nơi đến chốn, nói chuyện mạch lạc có trước có sau như thường. Ðó là một
thí dụ.
Trong thế gian nầy có những người bình
thường, tâm thần ổn kiện, nhưng cũng giống như anh chàng mất trí, không thể kiểm
soát tâm khi ngồi lại hành thiền, thiền vắng lặng hay thiền minh sát. Cũng giống
như anh chàng mất trí kia không thể ăn trọn bửa cơm mà bỏ đi sau khi trợn trạo
năm sáu miếng, người có tâm trí bình thường nầy ngồi xuống hành thiền cũng để
tâm rong rỗi đầu nầy đầu kia bởi vì mình không thể kiểm soát nó. Mỗi khi lễ Phật
và quán niệm về những phẩm hạnh thánh thiện của Ðức Phật anh không thể gom tâm
vào những phẩm hạnh thánh thiện ấy mà để tâm phóng dật bay nhảy hết ý nghĩ nầy
đến những tư tưởng khác và không thể đọc hết một câu kinh cúng Tam Bảo như
"Iti' pi so ...", Phẩm Hạnh của Ðức Thế Tôn quả thật như thế nầy
..."
Cũng giống như người lâm bịnh chó dại
(sợ nước), khát nước đến khô môi khô cổ, nhưng khi thấy xa xa một ao hồ nước
mát thì sợ hải bỏ chạy. Lại cũng như một người bịnh mà phải dùng những thức ăn
nên thuốc để chữa trị thì cảm nghe đắng miệng và không thể nuốt, phải phun nhổ
ra hết. Cùng thế ấy, có những người tự thấy mình không thể thực hành pháp quán
niệm những hồng danh thánh thiện của Ðức Phật, một cách linh nghiệm. Họ không
thể tiếp tục giữ tâm an trụ vào đề mục. Khi bắt đầu đọc "Iti' pi so"
thì tâm phóng và bị gián đoạn, và nếu khởi đầu trở lại, mỗi lần đều bị gián đoạn,
vị ấy không bao giờ đọc đến cuối bài kinh, mặc dầu đọc cả ngày, cả tháng hay cả
năm. Giờ đây vị ấy cố gắng học thuộc lòng từng đoạn, và nhờ vậy có thể đọc đến
cuối bài kinh, mặc dầu tâm phóng.
Cùng thế ấy, trong những ngày giới bố-tát),
có những vị dự tính tìm nơi vắng vẻ yên tĩnh để quán niệm ba mươi hai phần của
thân như (tóc), (lông), v.v... hoặc hồng danh Ðức Phật, nhưng rốt cuộc lại gặp
bạn bè, vui chơi trò chuyện, quên mất những ý định tu niệm. Ðến chùa, vào lúc mọi
người cùng đọc kinh chung, mặc dầu cố gắng chú tâm vắng lặng đọc tụng kinh Tứ
Vô Lượng Tâm) như công thức rải tâm từ), nhưng vì không kiểm soát được tâm,
tinh thần tán loạn, những ý nghĩ bay nhảy tứ tung bất định và rốt cùng chỉ có
hình thức đọc tụng bề ngoài, ngồi đọc lời kinh mà tâm ở đâu nơi nào khác.
Bấy nhiêu trường hợp ấy đủ cho thấy
bao nhiêu người tuy bình thường, nhưng có cuộc sống giống như anh chàng mất trí
trong lúc tạo thiện nghiệp, gieo trồng nhân thiện tạo phước.
Tâm thỏa thích trong ác pháp.
(Kinh Pháp Cú, câu 116)
Giống như bản chất thiên nhiên của nước
là chảy từ trên cao xuống thấp, tâm của chúng sanh cũng dường thế ấy, tự nhiên
xít lại gần ác pháp. Ðó là khuynh hướng thiên nhiên của tâm.
Sư kể thêm một câu chuyện thí dụ để so
sánh người không thể kiểm soát tâm với anh chàng mất trí.
Trên một con sông nước chảy thật
nhanh, có người lái buôn nọ chở đầy ghe những hàng hóa quý giá nhưng không
thông thạo công việc chèo chống, hay lèo lái. Anh xuôi dòng, xuyên qua những
khúc sông chảy dài theo rừng núi hoang vu không bến đậu, không chỗ thuận tiện để
cặp ghe. Và như thế anh tiếp tục không ngừng thả trôi theo dòng nước. Ðêm đến,
thuyền đi ngang qua những xóm làng, thành thị, và những nơi có bến để ghe đậu,
nhưng vì đêm tối anh không thấy, nên cứ tiếp tục để thuyền trôi ngang qua mà không
dừng lại cặp bến. Rồi ngày đến, thuyền trôi ngang qua những nơi có phố phường
thành thị, nhưng vì không nắm vững tay lái, anh không thể hướng thuyền vào bến
và lại phải tiếp tục để thuyền trôi, dần dần ra khơi, giữa biển cả mênh mông.
Vòng quanh luân hồi những kiếp sống
dài dẳng vô cùng tận cũng tựa hồ như con sông nước chảy nhanh. Những chúng sanh
không kiểm soát được tâm giống như người lái buôn đi thuyền mà không biết chèo
chống hay lèo lái con thuyền. Tâm như chiếc thuyền. Chúng sanh bị trôi giạt trong
dòng nước lũ của những kiếp sinh tồn, hết kiếp nầy đến kiếp khác, xuyên qua những
chu kỳ thế gian không có Giáo Pháp của một vị Phật giống như chiếc thuyền của
người lái buôn đi xuyên qua những vùng rừng núi hoang vu không bến đậu hoặc chỗ
cặp ghe. Ðôi lúc những chúng sanh ấy được sanh vào chu kỳ thế gian có Giáo Huấn
của một vị Phật truyền bá rộng rãi và thịnh vượng, nhưng không hay biết vì bất
hạnh phải tái sanh vào một trong tám trường hợp không thuận lợi, cũng giống như
thuyền người lái buôn trôi ngang qua những phố phường hay xóm làng có bến cho
thuyền ghe đậu, nhưng vì đêm tối, anh lại không hay biết. Rồi đến khi, trong những
lúc khác được sanh làm người, làm chư thiên hay chư Phạm Thiên trong thời kỳ có
Giáo Pháp của một vị Phật nhưng không thể thành tựu Ðạo và Quả bởi vì không thể
kiểm soát tâm và không đủ chuyên cần tinh tấn để thực hành minh sát, tu tập Tứ
Niệm Xứ, nên vẫn phải tiếp tục lăn trôi trong vòng luân hồi. Những chúng sanh ấy
cũng giống như người lái buôn đã thấy được phố phường, làng xóm và bến nước để
ghe đậu, nhưng không thể hướng chiếc thuyền của mình vào bến vì không thể điều
khiển bánh lái và như thế tiếp tục bị dòng nước lũ kéo trôi ra biển cả mênh
mông. Xuyên qua vô số những kiếp sinh tồn nhiều như số cát trên bờ sông Hằng
trong vòng luân hồi dài dẵng, những ai đã giải thoát ra khỏi những khổ đau của
đời sống là những vị đã kiểm soát được tâm mình và có đủ khả năng gom tâm an trụ
vào đề mục tu tập đã chọn như mình muốn, qua pháp hành Tứ Niệm Xứ.
Ðiều nầy chỉ rõ khuynh hướng trôi giạt
trong vòng quanh những kiếp sinh tồn của những chúng sanh không thực hành Tứ Niệm
Xứ, mặc dầu hay biết rằng mình không thể kiểm soát tâm trong khi thực hành thiền
vắng lặng và minh sát.
Chúng ta cũng có thể lấy thí dụ người
luyện tập bò tơ để cho nó kéo cày hoặc kéo xe, hay người luyện voi để vua xử dụng
hoặc để dùng trong lúc có chiến tranh.
Trường hợp bò tơ. Trước hết phải cho
nó nhập bầy và quen ở chuồng, rồi xỏ vàm, tức xỏ sợi dây vàm xuyên qua mũi con
bò và cột đầu dây vào một trụ cột. Rồi dùng dây vàm điều khiển cho nó quen làm
theo ý mình. Phải luyện như thế cho đến khi bò đủ thuần thục để có thể gác ách,
cho nó kéo xe hoặc kéo cày. Ðến chừng ấy bò mới có thể sẵn sàng để xử dụng hoặc
bán. Ðó là thí dụ người luyện bò tơ.
Trong thí dụ nầy, quyền lợi và sự
thành công của người luyện bò tùy thuộc nơi tình trạng bò có thể được xử dụng hữu
hiệu trong công tác kéo xe hay kéo cày không, sau khi được rèn luyện, cùng thế ấy
lợi ích thật sự của người tu Phật, cư sĩ hay tỳ khưu, sống trong thời kỳ có
Giáo Huấn của vị Phật hiện tại, tùy thuộc nơi công phu tu luyện trong thiền vắng
lặng và thiền minh sát.
Trong Giáo Pháp của vị Phật hiện tại, pháp
hành Giới Tịnh giống như trong pháp luyện bò, cho bò nhập bầy và tập nó quen sống
trong chuồng.
Cũng như bò tơ, nếu không nhập bầy và
sống trong chuồng sẽ phá khuấy, làm hư hoại mùa màng hay sở hữu của người khác,
và đó là trách nhiệm của người chủ bò, cùng thế ấy người thiếu Giới Tịnh sẽ
không trong sạch giữ gìn tam nghiệp, do đó sẽ gặp những hoàn cảnh bất hạnh
trong đời và sẽ gặt hái những quả xấu trong tương lai, như Giáo Pháp dạy.
Cố gắng trau giồi thân quán niệm xứ,
giống như xỏ sợi dây vàm qua mũi con bò, và sau khi cột dây vàm vào trụ cột,
luyện cho bò tuân theo lịnh điều khiển của mình. Cũng như bò bị cột vào trụ phải
tuân theo lịnh, chủ biểu làm gì thì làm theo ý muốn của chủ, không thể chạy loạn,
cùng thế ấy, khi bị cột vào thân bằng sợi dây tứ niệm xứ, tâm không thể chạy loạn
mà phải an trụ vào bất luận nơi nào mà người chủ muốn. Thói quen khuấy động và
phóng dật chạy loạn của tâm từ xa xưa trong vòng luân hồi không thể quan niệm,
giờ đây lắng đọng, trở nên vắng lặng.
Thực hành thiền vắng lặng và thiền
minh sát mà trước đó không niệm thân thì cũng như người chủ bò gác vào ách xe
hay ách cày một con bò chưa từng được xỏ vàm. Người ấy sẽ không điều khiển được
bò theo ý muốn. Bởi vì bò còn hoang dại và vì chưa có vàm để điều khiển, nó sẽ
chạy hoang loạn, lệch ra khỏi đường hoặc vùng vằng phá ách để thoát thân.
Ðàng khác, người đã có tu luyện để kiểm
soát và lắng tâm bằng pháp Niệm Thân trước khi hướng về pháp hành thiền vắng lặng
và minh sát thì tâm dễ dàng an trụ, và người ấy sẽ thành công.
Trong trường hợp luyện voi, trước hết
phải đem con voi hoang dại ra khỏi rừng, đưa đến một vùng đất rộng, nơi chuyên
dùng để luyện voi có hàng rào bằng cột kiên cố, rồi cột voi chắc chắn vào một
nơi an toàn, giữ đó cho đến khi nó được rèn luyện thuần thục, trở nên yên tĩnh
và không còn hung hăng hoang dại. Sau đó người ta mới bắt đầu luyện tập voi làm
những công việc mà nó sẽ phải làm cho vua. Ðến chừng ấy voi mới trở nên hữu
ích, mới được xử dụng hữu hiệu trong những phận sự khác nhau trong nước, và ở
chiến trường khi quốc gia hữu sự.
Lãnh vực của những lạc thú trần gian
cũng giống như khu rừng mà con voi hoang dại thỏa thích hưởng thụ. Giáo Huấn của
một vị Phật tựa hồ như vùng đất rộng rãi mà người ta đưa voi rừng đến để rèn
luyện. Voi rừng giống như cái tâm. Ðức tin và lòng ham muốn trong Giáo Pháp giống
như con voi cần phải được luyện mà người ta buộc chung với con voi đã được huấn
luyện, rồi đem ra ngoài trời trong một vùng đất rộng. Giới Tịnh, tức giới đức
trong sạch, là cái hàng rào kiên cố bao quanh chỗ cột voi. Cơ thể vật chất hay
những phần trong thân như hơi-thở-ra và hơi-thở-vào giống như những cột trụ vững
chắc ở bên trong rào mà voi bị cột vào. Pháp Niệm Thân giống như sợi dây cột
voi vào trụ. Những công trình chuẩn bị luyện voi cũng giống như những pháp
hành, chuẩn bị đưa đến thiền vắng lặng và thiền minh sát. Công phu hành thiền,
vắng lặng hay minh sát, là những công việc khác nhau như diễn binh, tập trận
hay xông pha trên chiến trường.
Những thí dụ khác giờ đây có thể được
nhận ra dễ dàng.
Như vậy, Sư đã chỉ rõ những thí dụ người
mất trí, người đi thuyền mà không biết lèo lái chiếc thuyền của mình, người luyện
bò tơ, và người luyện voi. Ðó là những điểm chánh yếu trong pháp Niệm Thân mà tập
tục cổ truyền xem là bước đầu của công phu hành thiền từ giai đoạn Giới Tịnh trở
lên, trong Giáo Huấn của tất cả chư Phật đã thị hiện trong vòng luân hồi dài dẳng
từ quá khứ xa xôi không thể quan niệm.
Ý nghĩa chánh là dầu niệm hơi-thở-ra
và hơi-thở-vào, hay niệm iriyàpatha (bốn oai nghi -- đi, đứng, ngồi, nằm với
tâm giác tỉnh, hiểu biết rõ ràng hoặc bằng cách gom tâm niệm vào Tứ Ðại, hoặc bằng
cách niệm xương, ta phải chuyên cần tinh tấn để thâu đạt khả năng tập trung chú
niệm vào thân và vào bốn oai nghi của mình bao lâu cũng được, suốt ngày suốt
đêm ngoại trừ lúc ngủ, và do đó vững vàng kiểm soát tâm mình. Làm như vậy ta
thoát khỏi trạng thái bất hạnh của người mất trí. Giờ đây ta giống như người đi
thuyền đã nắm vững tay lái, hay người chủ của một con bò đã được rèn luyện thuần
thục, hoặc giống như nhà vua đang xử dụng một thớt voi đã được áp phục và thuần
hóa.
Có nhiều loại và nhiều mức độ làm chủ
tâm mình. Trong Giáo Huấn của Ðức Phật, công phu thực hành pháp Niệm Thân một
cách viên mãn là giai đoạn đầu tiên trên bước đường đưa đến khả năng vững vàng
làm chủ tâm mình.
Những vị hành giả không muốn theo con
đường vắng lặng mà chỉ muốn theo con đường minh sát thuần túy, phải tiến thẳng
vào minh sát sau khi đã kiên cố thành công pháp Niệm Thân.
Nếu những vị nầy không muốn hành pháp
Niệm Thân riêng rẽ mà tận lực chuyên cần hành Minh Sát đến độ có thể bao gồm
luôn pháp niệm thân, thì cũng có thể thành công, nếu họ có đủ tinh tấn và trí
tuệ. Pháp Niệm Thân liên hợp với Tuệ Sanh Diệt, thấy rõ ràng trạng thái phát
sanh và hoại diệt của những hiện tượng tâm-vật-lý, quả thật là rất quan trọng.
Theo phương pháp hành vắng lặng, bằng
cách niệm hơi-thở-ra và hơi-thở-vào của pháp Niệm Thân, ta có thể tiến đạt đến
Tứ Thiền Sắc Giới; bằng cách niệm ba mươi hai phần của thân như tóc, lông,
v.v... ta có thể chứng đắc tất cả tám tầng Thiền, và bằng cách hành Niệm về trạng
thái bất tịnh (ô trược) của thân, cũng của pháp Niệm Thân, ta có thể đắc Sơ Thiền.
Nếu trong khi thiền, phát triển Minh Sát ta cũng có thể thành tựu Ðạo và Quả.
Dầu không trọn vẹn thành công trong
pháp hành vắng lặng và minh sát mà chỉ đến mức kiểm soát tâm và có khả năng giữ
tâm an trụ vào đề mục, Ðức Phật dạy, người như thế có thể được xem là đã thỏa
thích hưởng thụ hương vị của trạng thái Bất Diệt của Niết Bàn
"Những ai hoan hỷ thỏa thích
trong pháp Niệm Thân an vui thỏa thích trạng thái Bất Diệt (Niết Bàn)." có
nghĩa là trạng thái tâm thanh bình an lạc và vắng lặng. Trạng thái đã "dập
tắt mọi ô nhiễm" trong đời sống của vị A-La-Hán.
Trong tình trạng sơ khởi, tâm rất chao
động và bất ổn định khi ta muốn chăm chú vào đề mục. Như thế bản chất nguyên thủy
của tâm là khô cằn và nóng nảy. Giống như con sâu nằm trong trái ớt, không hay
biết gì đến sức nóng của ớt, con người có bản chất tham ái không nghe sức nóng
của ái dục, người có bẩm tánh sân hận và tự cao tự đại không cảm nhận sức nóng
của sân hận và tánh tự phụ, cùng thế ấy chúng sanh không hay biết gì đến sức
nóng của một cái tâm khuấy động. Chỉ đến khi, do công phu thực hành pháp Niệm
Thân, trạng thái tâm tán loạn chấm dứt, ta mới nhận thức nhiệt độ của tình trạng
bất ổn. Ðã tiến đạt đến trạng thái tan biến của tâm khuấy động ta mới biết sợ sức
nóng của tâm ấy tái phát. Trường hợp người đã thành đạt tầng Sơ Thiền hay tầng
Tuệ Sanh Diệt xuyên qua pháp hành Niệm Thân, ta không cần phải giải bày dài
dòng nữa.
Từ đây, càng thành đạt những mức độ
cao siêu nhiều hơn càng thấy mình khó tự tách rời khỏi pháp Niệm Thân. Các bậc
Thánh Nhân áp dụng pháp Tứ Niệm Xứ để nuôi dưỡng tâm linh cho đến khi nhập Ðại
Niết Bàn .
Ðể thành đạt khả năng giữ tâm an trụ
vào một phần nào trong thân, như hơi-thở-ra và thở-vào chẳng hạn, có thể cần phải
mất từ 7 ngày hay 15 ngày, hoặc một tháng, 2 tháng, 3 tháng, hay 4 tháng, hay 5
tháng, 6 tháng hay một năm, 2 năm, hay 4 năm, tùy theo mức độ chuyên cần tinh tấn
của mỗi người.
Có nhiều sách dạy về pháp hành niệm ba
mươi hai phần của thân. Trong pháp hành nầy, tóc, lông, móng tay, móng chân, răng,
da được xem là nhóm năm phần của thân, chấm dứt bằng Nước tiểu. Nếu có thể vững
chắc an trụ tâm vào năm điểm ấy công phu Niệm Thân đã được viên mãn thành tựu.
Về những pháp niệm Phân Tách Tứ Ðại,
quán niệm các hiện tượng vật lý, tức các sắc pháp, và quán niệm các hiện tượng
tâm linh, danh pháp.
* * *
Ðến đây chấm dứt phần giảng giải ngắn
gọn pháp Thân Quán Niệm Xứ, vốn là một trong bốn pháp "Tứ Niệm Xứ",
và là pháp mà những người cần nên kiên cố nắm vững trong công trình luyện tâm,
nhằm mục tiêu thành đạt Ðạo và Quả trong Giáo Huấn của một vị Phật.