Sunday, April 10, 2022

TRƯỞNG LÃO MEGHIYA

 

TRƯỞNG LÃO MEGHIYA

Đức Phật thuyết giảng 2 bài kệ sau:

(Nghĩa của 2 bài kệ)

“Tâm luôn chạy đến nơi 6 đối tượng; nó không bao giờ ở lâu trên đối tượng mà chỉ thoắt đến thoắt đi. Bởi vì không thể đặt để nó lâu trên một đối tượng thích hợp, nên rất khó giữ gìn nó được; và cũng rất khó trong việc ngăn cấm không cho nó đi đến những đối tượng không thích hợp. Cũng giống như người thợ dùng lửa để làm thẳng lại những mũi tên bị cong; người thực hành thiền cũng vậy, tự chính mình phải luôn làm cho tâm của mình thuận theo mình vậy.”

“Ví như con cá mới vừa bị vớt lên khỏi nước, đặt trên mặt đất thì vùng vẫy, nhảy đành đạch như thế nào; cũng giống như vậy, để đoạn diệt các phiền não trong tâm, khi tâm ấy vừa mới bị kéo lôi ra khỏi các đối tượng tham muốn, đặt nó lên trên đối tượng thiền định-tuệ (kammaṭṭhāna), nó sẽ vùng vẫy, giãy nảy.”

Một cung thủ khi mũi tên của mình bị cong, thì phải làm cho nó thật thẳng mới sử dụng được. Để làm được như vậy, điều kiện cần thiết phải có đó là đống lửa than. Khi đã có đống lửa than rồi, trước hết là phải tìm cho ra đoạn cong, sau đó dùng lửa đốt nóng vào chỗ bị cong ấy; tiếp nữa nắn lại cho thật thẳng; sau đó nữa là ngắm bên này bên kia; tiếp theo sau nữa kiểm tra xem có dùng được hay không. Đây là những việc làm theo tuần tự để cho mũi tên từ cong trở nên thẳng và có thể sử dụng được. Khi đem những công việc làm theo tuần tự này, so sánh áp dụng vào trong 8 nhân Thánh đạo, thì chánh niệm giống như sự tìm kiếm chỗ cong; chánh tinh tấn giống như dùng lửa đốt nóng đoạn cong ấy; chánh định giống như sự nắn lại cho thật thẳng; chánh tư duy giống như sự ngắm bên này bên kia; chánh kiến giống như sự kiểm tra xem xét có dùng được hay không; còn chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng chính là 3 nhân giới Thánh đạo giống như đống lửa than vậy.

Cũng giống như ví dụ về cung thủ này, người thực hành thiền (Yogī) với nhân Thánh đạo chánh niệm luôn quan sát không để cho những đối tượng hiện rõ đến trong các cửa ngõ (dvāra: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) của mình trôi mất đi; với nhân Thánh đạo chánh tinh tấn luôn phải cố gắng nắm bắt cho được đối tượng mà chánh niệm đã chỉ dẫn không cho chúng chạy thoát; với nhân Thánh đạo chánh định bắt nhốt giam giữ cho được đối tượng ấy; với nhân Thánh đạo chánh tư duy quan sát, khám xét kỹ lưỡng đối tượng ấy rồi trình lên chánh kiến; với nhân Thánh đạo chánh kiến phải thấy biết phân biệt rõ ràng các đối tượng ấy là vô thường hay thường, khổ hay lạc, vô ngã hay ngã, bất tịnh hay tịnh. Đây là những công việc, phận sự mà 8 nhân Thánh đạo (maggaṅga) thực hành trên những đối tượng liên quan đến những đối tượng thiền định-tuệ (kammaṭṭhāna). Để thực hành những công việc, phận sự ấy đạt được sự nhạy bén cao, thì cần phải làm cho các thành phần làm chủ (indriya: đức tin, tinh tấn, niệm, định và tuệ) trở nên già dặn, có năng lực. Để các thành phần (yếu tố) làm chủ trở nên già dặn, có năng lực lại cần phải có sự góp sức thực hành bởi 8 nhân Thánh đạo. Và như vậy, giữa các pháp làm chủ và những nhân Thánh đạo có sự tương nhân tương duyên hỗ trợ lẫn nhau vậy.

Còn nếu một khi những đối tượng hiện rõ qua các cửa ngõ (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) của mình mà không được quán xét rõ bởi các nhân Thánh đạo, thì tâm sẽ bị lôi cuốn chạy theo sau mỗi đối tượng hiện hữu vậy. Tuy bị lôi cuốn chạy theo đối tượng như vậy, nhưng không bao giờ tâm lại bám chặt trên một đối tượng duy nhất, mà luôn dao động thay đổi từ đối tượng này sang đối tượng khác. Ngoài ra, tuy đã ngăn cản không cho chạy theo sau các đối tượng không thích hợp, nhưng tâm lại không tuân theo sự ngăn cản ấy, mà lại nhất quyết, bất chấp vượt thoát ra ngoài sự kiểm soát ấy. Và tuy cố gắng để giữ cho nó bám chặt trên những đối tượng thiền thích hợp, nhưng không phải khi nào sự cố gắng thực hành thiền ấy tâm đều thuận theo, nó muốn đi đến đâu thì đi.

Bởi thật ra, tâm với vai trò là “chủ nhà”, tuy nguyên gốc bản chất là trong sạch, nhưng do vì tiếp xúc với những vị khách mang tính chất phiền não ô nhiễm, cho nên mới có sự dao động, khó dạy bảo như vậy. Do đó, phải luôn cố gắng để làm cho tâm thoát khỏi được từ những sự ô nhiễm bởi phiền não “khách” ấy. Cho đến khi nào mà tâm chưa thể thoát khỏi ô nhiễm từ các phiền não, thì nó vẫn luôn chạy theo sau các đối tượng hiện hữu vậy. Còn nếu một khi tâm không còn bị lôi cuốn chạy theo sau các đối tượng nữa, mà chỉ có các đối tượng chạy đến với tâm, thì khi ấy có thể nói tâm một phần nào đó đã thoát ra khỏi được phiền não vậy. Một khi tâm đã có được trạng thái thoát khỏi được phiền não chừng nào, thì đồng thời tâm ấy cũng đã trở nên trong sạch, hiền thiện chừng ấy. Do đó cho nên, phải luôn luôn cố gắng làm cho tâm của mình trở nên trong sạch, hiền thiện.

Một khi tâm được trong sạch, hiền thiện chừng nào, thì nó sẽ mang lại sự an lạc chừng ấy. Trong việc làm cho tâm trở nên trong sạch, hiền thiện, trước hết phải làm sao cho tâm không bị lôi cuốn chạy theo sau đối tượng, mà hãy cố gắng thực hành làm sao để chỉ có đối tượng đi đến hiện rõ trong tâm. Trong sự cố gắng thực hành ấy, cũng giống con cá bị vớt ra khỏi nước đặt lên trên mặt đất vùng vẫy, giãy đành đạch thế nào, tâm cũng dao động, vùng vẫy như thế ấy. Tâm dao động, vùng vẫy có nghĩa là tâm không ở nơi chỗ của mình, sơ hở giây lát, thất niệm một khá-ṇá (khaṇa) là liền chạy theo sau đối tượng. Để cho tâm ở yên nơi chỗ của mình, không chạy theo sau đối tượng, thì cần phải dùng chánh niệm canh gác trông chừng nó. Khi ấy, tâm không còn chạy theo sau các đối tượng nữa, mà chỉ có các đối tượng hướng thẳng trực tiếp về tâm. Như vậy, thì có thể nói rằng tâm đã được giữ gìn, điều khiển bởi chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định, gồm 3 nhân Thánh đạo thiền định vậy. Nếu một khi đã có thể giữ gìn được như vậy, thì sẽ quan sát, ghi nhận phân biệt rõ được nāma-rūpa (tâm tính-sắc thân); cũng như sẽ quán chiếu, suy xét phân biệt rõ được nhân-quả trong các đối tượng mỗi khi chúng hướng thẳng trực tiếp đến tâm ấy. Tiếp theo, phải quan sát, ghi nhận các đối tượng ấy để thấy biết rõ sinh-diệt; và cứ tiếp tục quan sát, ghi nhận sự sinh-diệt như vậy cho đến khi nhàm chán, nguội lạnh nơi những đối tượng tâm tính-sắc thân ấy. Sau đó nữa, người thực hành thiền định-tuệ (Yogī) tiếp tục thực hành thiền quán cho đến khi thấy biết rõ Niết-bàn nơi hết sạch sự sinh-sự diệt.

Trong việc để thấy biết rõ được Niết-bàn như vậy, điều trước tiên là cần phải giữ gìn giới hạnh cho thật trong sạch. Sau khi giới hạnh đã trong sạch rồi, để định tâm trở nên có năng lực mạnh mẽ, thì phải sử dụng chánh niệm giữ gìn không cho tâm chạy theo sau các đối tượng. Ban đầu phải dùng sự chủ ý cố gắng chính bản thân người thực hành (puggalabyāpāra) để giữ gìn; về sau chánh niệm tự chính nó với sự chủ ý cố gắng của pháp hành (dhammabyāpāra) tự động phát sinh lên giữ gìn. Khi chánh niệm với năng lực chủ ý của pháp hành có thể tự giữ gìn được, thì tâm không còn bị lôi cuốn chạy theo sau các đối tượng nữa, mà chỉ có các đối tượng đi đến hiện hữu trực tiếp trong tâm thôi vậy. Khi ấy, với 3 nhân Thánh đạo thiền định và 2 nhân Thánh đạo thiền tuệ sẽ luôn quan sát, ghi nhận các đối tượng đến hiện hữu trực tiếp đó. Một khi quan sát, ghi nhận chúng trong một thời gian lâu dài, thì các nhân Thánh đạo sẽ thấy biết rõ ràng sự luôn luôn sinh-diệt không ngừng nghỉ của cả đối tượng được thấy biết lẫn chủ thể quan sát, ghi nhận ấy, giống như nhìn thấy rõ một vật bằng đôi mắt thường vậy; đến cuối cùng, từ 5 nhân Thánh đạo đưa đến hợp đủ 8 nhân Thánh đạo, để chứng đạt được Niết-bàn cao thượng trực tiếp ngay trong kiếp sống này.

Tính chất sự thực hành này được đức Phật thuyết giảng chỉ dạy đến Trưởng lão Meghiya bằng 2 bài kệ trên. Khi đức Phật thuyết giảng như vậy, Trưởng lão Meghiya nghe và thực hành theo nên chứng đạt đến Nhập Lưu Thánh quả, và đã trở thành một bậc Thánh Nhập Lưu. Do đó, giống như Trưởng lão Meghiya, các Yogī thực hành thiền tuệ nào thường hay bị các suy nghĩ sai lệch (tà tư duy) hành hạ, làm khổ, thì phải nên cố gắng thực hành phương pháp phát triển chánh niệm khắng khít trên tâm (cittānupassanā), để đưa đến sự chứng đạt 4 sự thật chân lý của bậc Thánh, như Trưởng lão Meghiya đã thực hành vậy.


Trích từ Dhammapada Những Pháp Dẫn Đến Niết Bàn – Sư Hộ Giới (Rakkhitasīla Bhikkhu) dịch Việt theo Dhammapada nguyên tác tiếng Myanmar của tác giả U Shwe Aung