Sunday, April 10, 2022

SAMGHARAKKHITA CHÁU

 

SAMGHARAKKHITA CHÁU

Khi tất cả đến trình diện trước đức Phật, Ngài hỏi về sự việc xảy ra của vị Tỳ khưu nhỏ ấy, các vị Tỳ khưu khác đã trình bạch lên đức Phật đầu đuôi câu chuyện. Khi ấy, đức Phật đã thuyết dạy bài kệ pháp bảo sau:

(Nghĩa của bài kệ)

“Tâm đương nhiên nó có thể đi đến nơi rất xa; nó có thể sinh khởi hết tâm này rồi lại đến tâm khác (đi một mình). Nó không có hình dạng. Nó nương nhờ nơi hang động gọi là hadayavatthu (sắc tâm nương nhờ, (tim, não…). Người có thể giữ gìn tâm một cách an toàn thì sẽ thoát khỏi trói buộc của Ma vương.”

Đã là tâm thì theo bản chất tự nhiên của nó, trong một kha-ṇa (khaṇa: tích tắc) là có thể đi đến một thời gian rất xa xăm; trong một tích tắc là có thể đi đến một nơi chốn xa xôi. Đây chính là bản chất tự nhiên, là năng lực của tâm vậy.

Nếu để cho năng lực của tâm theo như tự nhiên của nó là “muốn đi đâu cứ đi”, không có sự theo dõi, giữ gìn, mà buông thả nó, thì sẽ rơi vào sự thực hành theo phương pháp “kāma-sukhallikā-nuyoga: cố gắng thuận theo sự hưởng thụ an lạc trong các đối tượng tham muốn”, nên không thích hợp, không đúng đắn. Còn nếu ra sức ngăn cấm, đè nén một cách cực đoan phi pháp rằng “không được đi”, thì đó cũng là rơi vào trong sự thực hành theo phương pháp “atta-kilamathā-nuyoga: cố gắng hành hạ thân thể khandha làm cho mệt mỏi, khổ đau”, nên cũng không thích hợp, không đúng đắn. Bởi thật ra, đã là tâm thì nó luôn sinh khởi theo như bản chất của chính nó. Trong khi nó thực hiện phận sự tự nhiên của chính nó (anatta), thì chính mình với danh nghĩa là một chúng sinh, một nhân vật (atta) rồi xen vào can thiệp; sự can thiệp vào này gọi là thực hành theo phương pháp “anta-paṭipadā: thực hành cực đoan”.

Còn như sự thực hành theo phương pháp trung dung, hài hòa “majjhima-paṭipadā” (Hán dịch: pháp hành trung đạo), đó là sự thực hành không phải với danh nghĩa chúng sinh, nhân vật; mà chỉ với danh nghĩa “dhamma: pháp, nhân duyên, sự diễn tiến”. Vì vậy, chính người thực hành ấy phải nghiên cứu, tìm hiểu tâm của mình; phải quán xét, biết rõ phận sự của tâm.

Mỗi khi tâm nhận biết đối tượng đều phải được ghi nhận bởi “sati: niệm, sự chú ý, để ý” (sammāsati: chánh niệm). Và để sự ghi nhận không bị gián đoạn, cắt đứt, thì phải sử dụng “vīriya: tinh tấn” (sammāvāyama: chánh tinh tấn), luôn nỗ lực cố gắng không thoái chuyển, không lười biếng. Để tâm không bị buông thả, thì phải rào chắn, cắm chặt bởi “samādhi: an định, nhất tâm” (sammāsamādhi: chánh định). Với “vitakka: sự hướng tâm tư duy” (sammā-saṅkappa: chánh tư duy) phải tìm hiểu, nghiên cứu hiểu biết mọi mặt của đối tượng. Và với “paññā: trí tuệ” (sammādiṭṭhi: chánh kiến) phải đưa ra những quyết định đúng đắn chân thật rằng đối tượng này không phải nhân vật, không phải chúng sinh, không phải một vật thể nào, nó chỉ là sự kết hợp thôi thúc tạo tác (saṅkhāra). Trong khi làm những phận sự này, thì phải có “sati”, “vīriya”, “samādhi” với vai trò là nhân thiền định Thánh đạo (samādhi-maggaṅga) tham gia vào trong các phận sự ấy. Và còn phải có “saṅkappa” (vitakka: hướng tâm, tư duy) và “paññā” với vai trò là nhân thiền tuệ Thánh đạo (paññā-maggaṅga) cũng tham gia vào trong các phận sự ấy. 5 nhân Thánh đạo (sati: niệm, vīriya: tinh tấn, samādhi: định, saṅkappa: tư duy, paññā: trí tuệ) này gọi là nhân thiền quan sát, quán xét Thánh đạo (vipassanā-maggaṅga). Bất cứ khi nào tâm hướng đến tiếp nhận đối tượng, thì những nhân tố như thế này phải luôn luôn hoạt động theo trong tâm ấy.

Trong phận sự hoạt động như vậy, không phải làm với tính chất nhân vật (puggala), mà chỉ làm với tính chất dòng sinh diệt thuần túy tự nhiên (dhamma). Bởi thật ra, trong thế gian này thật sự không có cái gọi là nhân vật (na puggala), chúng sinh (na sattā) hay sự vật (na koci); tất cả chỉ là điều kiện tự nhiên, sinh-diệt không ngừng (dhamma); tất cả chỉ là sự kết hợp thôi thúc tạo tác (saṅkhāra).

Một khi “dhamma” hoặc “saṅkhāra” được ghi nhớ, nhận định là nhân vật, hoặc chúng sinh, hoặc sự vật, thì đồng thời ngay khi ấy “cái ta” sẽ xen vào. Chính “cái ta” này gọi là “atta: linh hồn”. Và khi ấy, liên quan đến sự tiếp nhận đối tượng của tâm, nó có thể sẽ phát sinh sự vui thích, hài lòng; hoặc có thể sẽ phát sinh sự chán ghét, không hài lòng. Dù là khi sự vui thích, hài lòng sinh khởi; hay khi sự chán ghét, không hài lòng sinh khởi, thì chúng cũng là phiền não ô nhiễm cả thôi. Chính ngay lúc này gọi là tâm đã bị phiền não kết giao, trói buộc.

Do đó, dù tâm có tiếp nhận đối tượng nào đi nữa, thì đối tượng ấy không phải là nhân vật, không phải là chúng sinh, không phải là sự vật; và chính tâm chủ thể biết tiếp nhận đối tượng cũng vậy, không phải nhân vật, không phải chúng sinh, không phải sự vật. Tất cả chỉ là dòng diễn tiến nhân quả thuần túy tự nhiên (dhamma). Tất cả chỉ là sự kết hợp thôi thúc tạo tác (saṅkhāra). Tất cả chúng chỉ là sinh-diệt, là vô thường, khổ, vô ngã, phải thấy biết rõ như vậy bằng cách tiến hành phát triển đầy đủ 5 nhân thiền quan sát, quán xét Thánh đạo gồm 3 nhân thiền định Thánh đạo là “sammāsati: chánh niệm”, “sammāvāyāma: chánh tinh tấn”, “sammāsamādhi: chánh định”; và 2 nhân thiền tuệ Thánh đạo là “sammāsaṅkappa: chánh tư duy”, “sammādiṭṭhi: chánh kiến”.

Khi cố gắng thực hành như vậy, nên thấy biết rõ rằng đã là tâm thì không phải chỉ có một cái (tâm) đang sinh khởi liên tục; mà là sự sinh khởi hết cái (tâm) này rồi đến cái (tâm) khác. Nghĩa là một cái tâm này diệt đi và tiếp theo một cái tâm khác phát sinh lên theo sau. Vì vậy, tâm luôn trong trạng thái phát sinh lên với sự sinh-diệt liên tục. Trong sự sinh-diệt liên tục như vậy, cũng không phải duy nhất chỉ có một cái tâm đang sinh khởi. Tâm thứ hai sinh khởi (là một tâm khác) không phải tâm thứ nhất. Như vậy, các tâm mỗi khi sinh khởi thường chỉ có từng tâm, từng tâm một. Nếu một khi có sự nhận thức rằng tâm thứ hai sinh khởi cũng chính là tâm thứ nhất, thì đó là do bởi nhận thức sai lệch, tri kiến sai lệch về thường hằng (sassatadiṭṭhi). Còn nếu nhận thức rằng không có sự liên hệ, kết nối nào, thì đó cũng là do bởi nhận thức sai lệch, tri kiến sai lệch về chấm dứt, đứt đoạn (ucchedadiṭṭhi). Đã là tâm, tuy không phải chỉ duy nhất một tâm, nhưng theo như nhân-quả, thì chúng có liên hệ, kết nỗi lẫn nhau. Với 5 nhân Thánh đạo thiền tuệ phải nhìn, quan sát, quán xét cho thấy biết rõ ra điều đó.

Tâm nghĩa là không có thân thể, không có dung mạo, cũng không hình dạng. Bởi nếu một khi nhận thức rằng tâm có thân thể, hoặc có dung mạo, hoặc có hình dạng, thì “atta: cái ta, linh hồn” sẽ xen vào. Một khi “atta: cái ta, linh hồn” xen vào, thì trong 2 loại tính chất thích hay không thích, thế nào cũng có một loại tính chất sinh khởi lên, không thể nào sai chạy được. Ngay khi ấy, chính tâm đã bị phiền não kết giao, trói buộc. Tại sao vậy? Bởi vì, cả 2 loại tính chất thích hay không thích, đều chính là những phiền não.

Tuy nói rằng tâm có thể đi đến xa xôi diệu vợi dù là không gian (vị trí), hay thời gian. Nhưng thật sự không phải tâm đi đến nơi xa; mà nó chỉ nương nhờ vào nơi sắc có khả năng phát sinh tâm gọi là “hadayavatthu: sắc tâm nương nhờ” (tim, não…), rồi các đối tượng từ nơi xa xăm đến hiện rõ lên ở trong tâm ấy. Tính chất này sẽ được thấy biết một cách rõ ràng chi tiết, một khi 5 nhân Thánh đạo thiền tuệ có năng lực tốt. Điều quan trọng là chỉ cần làm sao cho năng lực của 5 nhân Thánh đạo thiền tuệ tốt lên mà thôi. Chắc chắn khi ấy tâm sẽ thấy biết đúng sự thật hiển nhiên rằng nó cùng với đối tượng luôn luôn sinh-diệt không ngừng nghỉ.

Để thấy biết rõ như vậy cần phải có giới hạnh (sīla). Bởi có giới hạnh mới có định tâm (samādhi). Khi có thiền định, rồi mới có được trí tuệ (paññā). Một khi có giới, định, tuệ đầy đủ cũng là lúc thấy biết rõ tướng trạng sinh-diệt của tâm cùng đối tượng của nó. Khi đã thấy biết rõ sinh-diệt của tâm, thì cũng thấy biết rõ được sinh-diệt của sắc (pháp); cũng như thấy biết rõ sinh-diệt của tất cả. Đến cuối cùng sẽ thấy biết rõ Niết-bàn nơi sạch bóng tất cả mọi tâm tính-sắc thân (nāma-rūpa), pháp – các yếu tố mang tính chất kết hợp thôi thúc tạo tác (dhamma-saṅkhāra). Chính sự nỗ lực cố gắng thực hành phát triển theo tuần tự như vậy gọi là giữ gìn, điều phục tâm; cũng gọi là sự đặt để, điều hướng tâm giải thoát khỏi những phiền não ô nhiễm; và cũng gọi là giải thoát khỏi sự kết giao, trói buộc của Ma vương.

Khi nghe được bài pháp bảo này, vị Tỳ khưu Saṃgharakkhita cháu, theo như pāramī của mình, ngay trong khi đang nghe bài pháp bảo, phiền não ô nhiễm đã không xen vào trong tâm của vị ấy được; và đã có thể cố gắng thực hành để giải thoát khỏi sự kết giao, trói buộc của Ma vương. Tuy nhiên, tâm của vị ấy chưa hoàn toàn giải thoát khỏi phiền não ô nhiễm, và cũng chưa hoàn toàn giải thoát khỏi sự kết giao, trói buộc của Ma vương; nhưng cũng đã giải thoát được một phần nào đó, tương xứng với cố gắng và pāramī. Đã thoát khỏi diṭṭhi: tri kiến sai lệch (tà kiến) và vicikicchā: hoài nghi; đã giải thoát khỏi 4 cõi khổ. Vì vậy, vị Tỳ khưu Saṃgharakkhita cháu đã chứng đắc Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành một bậc Thánh Nhập Lưu. Điều này được lưu truyền ghi chép lại trong lịch sử Phật giáo. Những người khác trong hội chúng nghe pháp hôm ấy cũng vậy, tùy theo năng lực pāramī của mình, khi nghe xong bài pháp bảo này cũng có được sự lợi ích thiết thực.

Chúng ta là những kẻ đã trôi lăn từ trong vô thủy sinh tử luân hồi, không thể biết được nơi bắt đầu, ngay chính mình cũng có thể là người có pāramī như vị Tỳ khưu Saṃgharakkhita cháu. Vì vậy, theo như đức Phật đã thuyết giảng, chúng ta phải luôn nỗ lực cố gắng để không thấy biết rằng tất cả tâm tính-sắc thân, các yếu tố mang tính chất kết hợp thôi thúc tạo tác là nhân vật, là chúng sinh, là tướng mạo, hình dáng…; mà quan sát, quán xét để thấy biết rõ tất cả chỉ là dòng nhân duyên sinh-diệt; để từ đó phát triển lên đến sự thấy biết nơi tận cùng của sinh-diệt là Niết-bàn.

Trích từ Dhammapada Những Pháp Dẫn Đến Niết Bàn – Sư Hộ Giới (Rakkhitasīla Bhikkhu) dịch Việt theo Dhammapada nguyên tác tiếng Myanmar của tác giả U Shwe Aung