HT Thích Minh Châu dịch
Ðức Phật khen ngợi Tỳ kheo ni
Dhammadinna là vị pháp sư bậc nhất trong hàng tỳ kheo ni. Trong bài kinh nầy,
Ni sư giải đáp các câu hỏi của ngài Visakha, một vị nam cư sĩ, và theo Chú giải,
ông là chồng của Ni sư khi còn tại gia, là một thương gia ở Vương Xá, và đã đắc
quả Bất lai.
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Rajagaha (Vương Xá), Tại
Veluvana (Trúc Lâm), chỗ Kalandaka Nivapa. Rồi nam cư sĩ Visakha đến chỗ Tỷ-kheo-ni
Dhammadinna ở, sau khi đến, đảnh lễ Tỷ-kheo-ni Dhammadinna rồi ngồi xuống một
bên. Sau khi ngồi xuống một bên, nam cư sĩ Visakha thưa với Tỷ-kheo-ni
Dhammadinna:
-- Thưa Ni sư, tự thân, tự thân, (Sakkaya),
được gọi là như vậy. Thưa Ni sư, Thế Tôn gọi tự thân là như thế nào?
-- Hiền giả Visakha, Thế Tôn gọi năm thủ uẩn
là tự thân, tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn và thức
thủ uẩn. Hiền giả Visakha, năm thủ uẩn này, Thế Tôn gọi là tự thân.
-- Lành thay, thưa Ni sư.
Nam cư sĩ Visakha hoan hỷ, tín thọ lời Tỷ-kheo-ni
Dhammadinna nói, rồi hỏi Tỷ-kheo-ni Dhammadinna thêm một câu hỏi nữa:
-- Tự thân tập khởi, tự thân tập khởi, thưa
Ni sư, được gọi là như vậy. Thưa Ni sư, Thế Tôn gọi tự thân tập khởi
(Sakkayasamudaya) là như thế nào?
-- Hiền giả Visakha, khát ái này đưa đến
tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia, tức là dục
ái, hữu ái và phi hữu ái. Hiền giả Visakha, Khát ái này Thế Tôn gọi là tự thân
tập khởi.
-- Tự thân diệt, tự thân diệt, thưa Ni sư,
được gọi là như vậy. Thưa Ni sư, Thế Tôn gọi tự thân diệt là như thế nào?
-- Hiền giả Visakha, sự đoạn diệt, không
tham đắm, không có dư tàn của khát ái ấy, sự xả ly, sự vất bỏ, sự giải thoát, sự
vô chấp. Hiền giả Visakha, sự đoạn diệt này, Thế Tôn gọi là tự thân diệt.
-- Thưa Ni sư, tự thân diệt đạo, tự thân diệt
đạo, thưa Ni sư, được gọi là như vậy. Thưa Ni sư, Thế Tôn gọi tự thân diệt đạo
là như thế nào?
-- Hiền giả Visakha, Con đường Thánh tám
ngành này, Thế Tôn gọi tự thân diệt đạo, túc là chánh tri kiến, chánh tư duy,
chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
-- Thưa Ni sư, thủ này tức là năm thủ uẩn
kia hay thủ này khác với năm thủ uẩn?
-- Không phải, Hiền giả Visakha. Thủ này tức
là năm thủ uẩn kia, thủ này không khác với năm thủ uẩn kia. Hiền giả Visakha,
phàm có dục tham đối với năm thủ uẩn, tức là (chấp) thủ đối với chúng ở đây vậy.
-- Thưa Ni sư, thế nào là thân kiến?
-- Ở đây, Hiền giả Visakha, kẻ vô văn phàm
phu không đến yết kiến các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh,
không tu tập pháp các bậc Thánh, không đến yết kiến các bậc Chân nhân, không
thuần phục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân, xem sắc
là tự ngã hay xem tự ngã là có sắc, hay xem tự ngã là trong sắc; xem thọ là tự
ngã, hay xem tự ngã là có thọ, hay xem thọ là trong tự ngã, hay xem tự ngã là
trong thọ; xem tưởng là tự ngã, hay xem tự ngã là có tưởng, hay xem tưởng là
trong tự ngã, hay xem tự ngã là trong tưởng; xem hành là tự ngã, hay xem tự ngã
là có hành, hay xem hành là trong tự ngã, hay xem tự ngã là trong hành; xem thức
là tự ngã, hay xem tự ngã là có thức, hay xem thức là trong tự ngã, hay xem tự
ngã là trong thức. Như vậy, Hiền giả Visakha, là thân kiến.
-- Thưa Ni sư, thế nào là không phải thân
kiến?
-- Ở đây, Hiền giả Visakha, vị đa văn Thánh
đệ tử đến yết kiến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp
các bậc Thánh, đến yết kiến các bậc Chân nhân, thuần phục pháp các bậc Chân
nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân, không xem sắc là tự ngã, không xem tự ngã
là có sắc, không xem tự ngã là trong sắc; không xem thọ là tự ngã, không xem tự
ngã là có thọ, không xem thọ là trong tự ngã, không xem tự ngã là trong thọ;
không xem tưởng là tự ngã, không xem tự ngã là có tưởng, không xem tưởng là
trong tự ngã, không xem tự ngã là trong tưởng; không xem hành là tự ngã, không
xem tự ngã là có hành, không xem hành là trong tự ngã, không xem tự ngã là trong
hành; không xem thức là tự ngã, không xem tự ngã là có thức, không xem thức là
trong tự ngã, không xem tự ngã là trong thức. Như vậy, Hiền giả Visakha, là
không có thân kiến.
-- Thưa Ni sư, thế nào là Thánh đạo tám
ngành?
-- Hiền giả Visakha, đây là Thánh đạo tám
ngành, tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng,
chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
-- Thưa Ni sư, Thánh đạo tám ngành này là hữu
vi hay vô vi?
-- Hiền giả Visakha, Thắnh đạo tám ngành
này là hừu vi.
-- Thưa Ni sư, ba uẩn được Thánh đạo tám
ngành thâu nhiếp hay Thánh đạo tám ngành được ba uẩn thâu nhiếp?
-- Hiền giả Visakha, ba uẩn không bị Thánh
đạo tám ngành thâu nhiếp; Hiền giả Visakha, Thánh đạo tám ngành bị ba uẩn thâu
nhiếp. Hiền giả Visakha, chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng, những pháp này
được thâu nhiếp trong giới uẩn. Chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định, những
pháp này được thâu nhiếp trong định uẩn. Chánh tri kiến và chánh tư duy được
thâu nhiếp trong tuệ uẩn.
-- Thưa Ni sư, thế nào là định,
thế nào là định tướng, thế nào là định tư cụ, thế nào là định tu tập?
-- Hiền giả Visakha, nhất tâm là định, Bốn
Niệm xứ là định tướng, Bốn Tinh cần là định tư cụ, sự luyện tập, sự tu tập, sự
tái tu tập của những pháp ấy là định tu tập ở đây vậy.
-- Thưa Ni sư, có bao nhiêu hành?
-- Hiền giả, có ba loại hành này: thân
hành, khẩu hành, và tâm hành.
-- Thưa Ni sư, thế nào là thân hành, thế
nào là khẩu hành, thế nào là tâm hành?
-- Thở vô, thở ra, Hiền giả Visakha, là
thân hành, tầm tứ là khẩu hành, tưởng và thọ là tâm hành.
-- Thưa Ni sư, vì sao thở vô thở ra là thân
hành, vì sao tầm tứ là khẩu hành, vì sao tưởng và thọ là tâm hành?
-- Thở vô, thở ra, Hiền giả Visakha, thuộc
về thân, những pháp này lệ thuộc với thân, nên thở vô thở ra thuộc về thân
hành. Hiền giả Visakha, trước phải tầm và tứ rồi sau mới phát ra lời nói, nên tầm
tứ thuộc về khẩu hành. Tưởng và thọ là tâm sở, các pháp này lệ thuộc với tâm,
nên tưởng và thọ thuộc về tâm hành.
-- Thưa Ni sư, như thế nào là chứng nhập Diệt
thọ tưởng định?
-- Hiền giả Visakha, Tỷ-kheo chứng nhập Diệt
thọ tưởng định, vị ấy không nghĩ rằng: "Tôi sẽ chứng nhập Diệt thọ tưởng định",
hay: "Tôi đang chứng nhập Diệt thọ tưởng định", hay: "Tôi đã chứng
nhập Diệt thọ tưởng định." Vì rằng, tâm của vị này trước đã tu tập như vậy
nên đưa đến trạng thái như vậy.
-- Thưa Ni sư, Tỷ-kheo chứng nhập Diệt thọ
tưởng định, những pháp gì diệt trước, thân hành, khẩu hành, hay tâm hành?
-- Hiền giả Visakha, vị Tỷ-kheo chứng nhập
Diệt thọ tưởng định, khẩu hành diệt trước, rồi đến thân hành, rồi đến tâm hành.
-- Thưa Ni sư, làm thế nào xuất khởi Diệt
thọ tưởng định?
-- Hiền giả Visakha, vị Tỷ-kheo xuất khởi
Diệt thọ tưởng định, không có nghĩ rằng: "Tôi sẽ xuất khởi Diệt thọ tưởng
định", hay: "Tôi đang xuất khởi Diệt thọ tưởng định", hay:
"Tôi đã xuất khởi Diệt thọ tưởng định." Vì rằng, tâm của vị này trước
đã tu tập như vậy nên đưa đến trạng thái như vậy.
-- Thưa Ni sư, Tỷ-kheo xuất khởi Diệt thọ
tưởng định, những pháp nào khởi lên trước, thân hành, hay khẩu hành hay tâm
hành?
-- Hiền giả Visakha, Tỷ-kheo xuất khởi Diệt
thọ tưởng định, tâm hành khởi lên trước nhất, rồi đến thân hành, rồi đến khẩu
hành.
-- Thưa Ni sư, khi Tỷ-kheo xuất khởi Diệt
thọ tưởng định, vị ấy cảm giác những xúc nào?
-- Hiền giả Visakha, khi Tỷ-kheo xuất khởi
Diệt thọ tưởng định, vị ấy cảm giác ba loại xúc: không xúc, vô tướng xúc, vô
nguyện xúc.
-- Thưa Ni sư, khi Tỷ-kheo xuất khởi Diệt
thọ tưởng định, tâm của vị ấy thiên về gì, hướng về gì, khuynh hướng về gì?
-- Hiền giả Visakha, khi Tỷ-kheo xuất khởi
Diệt thọ tưởng định, tâm của vị ấy thiên về độc cư, hướng về độc cư, khuynh hướng
về độc cư.
-- Thưa Ni sư, có bao nhiêu thọ?
-- Hiền giả Visakha, có ba thọ này: lạc thọ,
khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ.
-- Thưa Ni sư, thế nào là lạc thọ, thế nào
là khổ thọ, thế nào là bất lạc bất khổ thọ?
-- Hiền giả Visakha, cái gì được cảm thọ bởi
thân hay tâm, một cách khoái lạc, khoái cảm, như vậy là lạc thọ. Hiền giả
Visakha, cái gì được cảm thọ bởi thân hay tâm, một cách đau khổ, không khoái cảm,
như vậy là khổ thọ. Hiền giả Visakha, cái gì được cảm thọ bởi thân hay tâm
không khoái cảm, không khoái cảm như vậy là bất khổ bất lạc thọ.
-- Thưa Ni sư, đối với lạc thọ, cái gì lạc,
cái gì khổ? Ðối với khổ thọ, cái gì khổ, cái gì lạc? Ðối với bất khổ bất lạc thọ,
cái gì lạc, cái gì khổ?
-- Hiền giả Visakha, đối với lạc thọ, cái
gì trú là lạc, cái gì biến hoại là khổ. Ðối với khổ thọ, cái gì trú là khổ, cái
gì biến hoại là lạc. Ðối với bất khổ bất lạc thọ, có trí là lạc, vô trí là khổ.
-- Thưa Ni sư, trong lạc thọ, có tùy miên
gì tồn tại; trong khổ thọ, có tùy miên gì tồn tại; trong bất khổ bất lạc thọ,
có tùy miên gì tồn tại?
-- Hiền giả Visakha, trong lạc thọ, tham
tùy miên tồn tại; trong khổ thọ sân tùy miên tồn tại; trong bất khổ bất lạc thọ,
vô minh tùy miên tồn tại.
-- Thưa Ni sư, có phải trong tất cả lạc thọ,
tham tùy miên tồn tại; trong tất cả khổ thọ, sân tùy miên tồn tại; trong tất cả
bất khổ bất lạc thọ, vô minh tùy miên tồn tại?
-- Hiền giả Visakha, không phải trong tất cả
lạc thọ, tham tùy miên tồn tại; không phải trong tất cả khổ thọ, sân tùy miên tồn
tại; không phải trong tất cả bất khổ bất lạc thọ, vô minh tùy miên tồn tại.
-- Thưa Ni sư, trong lạc thọ, cái gì phải từ
bỏ? Trong khổ thọ, cái gì phải từ bỏ? Trong bất khổ bất lạc thọ, cái gì phải từ
bỏ?
-- Hiền giả Visakha, trong lạc thọ, tham
tùy miên phải từ bỏ. Trong khổ thọ, sân tùy miên phải từ bỏ. Trong bất khổ bất
lạc thọ, vô minh tùy miên phải từ bỏ.
-- Thưa Ni sư, có phải trong tất cả lạc thọ,
tham tùy miên phải từ bỏ? Trong tất cả khổ thọ, sân tùy miên phải từ bỏ? Trong
tất cả bất khổ bất lạc thọ, vô minh tùy miên phải từ bỏ?
-- Hiền giả Visakha, không phải trong tất cả
lạc thọ, tham tùy miên phải từ bỏ; trong tất cả khổ thọ, sân tùy miên phải từ bỏ;
trong tất cả bất khổ bất lạc thọ, vô minh tùy miên phải từ bỏ. Ở đây, Hiền giả
Visakha, vị Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và an trú Thiền thứ nhất,
một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Do vậy tham đã được từ bỏ,
không còn tham tùy miên tồn tại ở đây. Ở đây, Hiền giả Visakha, vị Tỷ-kheo suy
tư như sau: "Chắc chắn ta sẽ chứng và an trú trong trú xứ mà nay các vị
Thánh đang an trú". Vì muốn phát nguyện hướng đến các cảnh giải thoát vô
thượng, do ước nguyện ấy, khởi lên ưu tư. Do vậy, sân được từ bỏ, không còn sân
tùy miên tồn tại ở đây. Ở đây, Hiền giả Visakha, vị Tỷ-kheo xả lạc và xả khổ,
diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả
niệm thanh tịnh. Do vậy vô minh đã được từ bỏ, không còn vô minh tùy miên tồn tại
nơi đây.
-- Thưa Ni sư, lạc thọ lấy gì làm tương
đương?
-- Hiền giả Visakha, lạc thọ lấy khổ thọ
làm tương đương.
-- Thưa Ni sư, khổ thọ lấy gì làm tương
đương?
-- Hiền giả Visakha, khổ thọ lấy lạc thọ
làm tương đương.
-- Thưa Ni sư, bất khổ bất lạc thọ lấy gì
làm tương đương?
-- Hiền giả Visakha, bất khổ bất lạc thọ lấy
vô minh làm tương đương.
-- Thưa Ni sư, vô minh lấy gì làm tương
đương?
-- Hiền giả Visakha, vô minh lấy minh làm
tương đương.
--Thưa Ni sư, minh lấy gì làm tương đương?
-- Hiền giả Visakha, minh lấy giải thoát
làm tương đương.
-- Thưa Ni sư, giải thoát lấy gì làm tương
đương?
-- Hiền giả Visakha, giải thoát lấy Niết
Bàn làm tương đương.
-- Thưa Ni sư, Niết-bàn lấy gì làm tương
đương?
-- Hiền giả Visakha, câu hỏi đi quá xa, vượt
ra ngoài giới hạn câu trả lời. Hiền giả Visakha, phạm hạnh là để thể nhập vào
Niết-bàn, để vượt qua đến Niết-bàn, để đạt cứu cánh Niết-bàn. Hiền giả Visakha,
nếu Hiền giả muốn, hãy đến chỗ Thế Tôn ở, và hỏi ý nghĩa này. Và Thế Tôn trả lời
cho Hiền giả như thế nào, hãy như vậy thọ trì.
Rồi nam cư sĩ Visakha hoan hỷ, tín thọ lời
Tỷ-kheo-ni Dhammadinna giảng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Tỷ-kheo-ni
Dhammadinna, thân bên phải hướng về phía Tỷ-kheo-ni rồi từ biệt, đi đến chỗ Thế
Tôn ở. Sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, nam
cư sĩ Visakha thuật lại cho Thế Tôn tất cả câu chuyện đàm đạo với Tỷ-kheo-ni
Dhammadinna. Khi nghe nói vậy. Thế Tôn nói với nam cư sĩ Visakha:
-- Này Visakha, Tỷ-kheo-ni Dhammadinna là bậc
Hiền trí! Này Visakha, Tỷ-kheo-ni Dhammadinna là bậc Ðại tuệ. Này Visakha, nếu
Ông hỏi Ta ý nghĩa ấy, Ta cũng trả lời như Tỷ-kheo-ni Dhammadinna đã trả lời.
Ông đối với ý nghĩa này, hãy như vậy thọ trì.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Nam cư sĩ
Visakha hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Tiểu Kinh Phương Quảng,
Kinh 44, Trung Bộ Kinh.
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam
Sài gòn, 1992