- Câu Hỏi
71: Làm thế nào để một người không từ bỏ hành thiền sau nhiều thất bại do rất
nhiều những chướng ngại cả bên ngoài lẫn bên trong gây ra?
Trả Lời Câu
Hỏi 71: Hành giả phải có niềm tin mãnh liệt nơi Đức Phật (Buddha), Giáo Pháp
(Dhamma) và Chư Tăng (Saṅgha). Hành giả phải tin rằng những gì Đức Phật nói về
vòng sanh tử luân hồi là thực. Cho dù hành giả đã làm được nhiều thiện nghiệp
trong kiếp này, nếu hành giả vẫn chưa chứng ngộ Niết-bàn (Nibbāna), hành giả sẽ
phải tiếp tục trôi lăn trong vòng luân hồi, cảm thọ những khổ đau của sanh,
lão, bệnh và tử, v.v… Và nếu một nghiệp bất thiện nào đó của hành giả chín mùi
vào sát-na cận tử ở bất kỳ kiếp nào, hành giả sẽ phải tái sanh vào một trong bốn
ác đạo, ngay cả trong địa ngục, cảm thọ khổ rất khốc liệt. Trong Kinh Hiền Ngu
(Bālapaṇḍita Sutta), Đức Phật đã nói với các vị Tỳ-kheo như vầy:
‘Người ngu
sau khi phạm tà hạnh về thân, về lời nói, về tâm ý, vào lúc thân hoại mạng
chung, sanh vào trong tình trạng bần cùng, trong một sanh thú bất hạnh, thậm
chí trong địa ngục.
‘Nếu nói một
cách đúng đắn thì phải nói: “Nơi ấy hoàn toàn không đáng mong muốn, hoàn toàn
không vừa ý,” về địa ngục, chính đáng mà nói, sẽ phải nói như vầy, cái khổ ở địa
ngục là rất nhiều đến nỗi khó tìm ra được một ví dụ để so sánh.
Khi điều
này được nói, một vị Tỳ-kheo đã hỏi đức Thế Tôn: ‘Nhưng, bạch đức Thế Tôn, ngài
có thể đưa ra một ví dụ được không?’
‘Có thể được,
này Tỳ-kheo,’ Đức Thế Tôn nói. ‘Này các Tỳ-kheo, giả sử có người bắt được một
tên trộm, và đưa hắn tới trình vua, người này nói: “Tâu Đại Vương, đây là một
tên trộm. Hãy ra lệnh trừng phạt hắn theo ý ngài.” Rồi đức Vua nói: “Hãy đem
người này đi và đâm người này vào buổi sáng với một trăm mũi giáo.” Và họ đâm hắn
một trăm mũi giáo vào buổi sáng. Đến trưa nhà Vua hỏi: “Người ấy thế nào rồi?”
— “Tâu Đại Vương, hắn vẫn còn sông.” Rồi đức Vua nói: “Hãy đi và đâm người này
vào buổi trưa với một trăm mũi giáo.” Và họ đâm hắn một trăm mũi giáo vào buổi
trưa. Đến chiều đức Vua hỏi: “Người ấy thế nào rồi?” — Tâu Đại Vương, hắn vẫn còn
sống.” Đức Vua nói: “Hãy đi và đâm người này vào buổi chiều với một trăm mũi
giáo.” Và họ đâm hắn với một trăm mũi
giáo vào buổi chiều. Các ông nghĩ thế nào, này các Tỳ-kheo? Liệu người ấy có cảm
thọ khổ và ưu do bị đâm với ba trăm mũi giáo như vậy không?’
‘Bạch Đức
Thế Tôn, dù bị đâm ngay cả với với một mũi giáo thôi, người ấy chắc chắn sẽ cảm
thọ khổ ưu rồi, nói gì đến ba trăm.’
Rồi, cầm lấy
một viên đá nhỏ cỡ bằng bàn tay, Đức Thế Tôn nói với các vị Tỳ-kheo như vầy:
Này các Tỳ-kheo, các ông nghĩ thế nào. Cái nào là lớn hơn, viên đá nhỏ ta cầm,
cỡ bằng bàn tay của ta, hay núi Tuyết Sơn (Himalaya), vua của các quả núi?’
‘Bạch Đức
Thế Tôn, viên đá nhỏ mà Đức Thế Tôn đang cầm, cỡ bằng bàn tay của ngài, không
đáng kể gì bên cạnh núi Tuyết Sơn, vua của các quả núi kia; thậm chí nó không bằng
một phần nhỏ, làm thế nào có sự so sánh được.’
‘Cũng vậy,
này các Tỳ-kheo, khổ ưu mà người kia cảm thọ do bị đâm với ba trăm mũi giáo
không đáng kể so với cái khổ địa ngục; nó không bằng một phần nhỏ, làm thế nào
có sự so sánh được. Bây giờ, này các Tỳ-kheo những người coi địa ngục hành hạ
người ấy với năm loại đâm xuyên, họ đóng một cây cọc sắt nóng đỏ xuyên qua một
tay, họ đóng một cấy cọc sắt nóng đỏ xuyên qua một tay khác, họ đóng một cây cọc
sắt nóng đỏ xuyên qua một chân, họ đóng một cây cọc sắt nóng đỏ xuyên qua một
chân khác, và họ đóng một cây cọc sắt nóng đỏ xuyên qua bụng người ấy. Ở đó người
ấy cảm giác những cảm thọ đau đớn, đau nhói, thấu tận xương tuỷ. Tuy thế nó vẫn
không chết bao lâu ác nghiệp ấy chưa cho hết quả báo của nó.
Kế tiếp những
người coi địa ngục ném người ấy xuống và chặt người ấy với những lưỡi búa. Ở đó
người ấy cảm giác những cảm thọ đau đớn, đau nhói, thấu tận xương tuỷ. Tuy thế
nó vẫn không chết bao lâu ác nghiệp ấy chưa cho hết quả báo của nó.
Kế tiếp những
người coi địa ngục treo ngược chân người ấy lên, đầu quay trở xuống và chặt người
ấy với những lưỡi rìu. Ở đó người ấy cảm giác những cảm thọ đau đớn, đau nhói,
thấu tận xương tuỷ. Tuy thế nó vẫn không chết bao lâu ác nghiệp ấy chưa cho hết
quả báo của nó.
Kế tiếp, những
người coi địa ngục thắng yên cương cho người ấy vào một cỗ xe và đánh cho người
ấy chạy qua chạy lại ngang qua bãi than nóng, cháy rực, cháy hừng. Ở đó người ấy
cảm giác những cảm thọ đau đớn, đau nhói, thấu tận xương tuỷ. Tuy thế nó vẫn
không chết bao lâu ác nghiệp ấy chưa cho hết quả báo của nó.
Kế tiếp những
người coi địa ngục bắt người ấy trèo lên tụt xuống một núi than đang cháy lớn,
cháy rực, cháy hừng. Ở đó người ấy cảm giác những cảm thọ đau đớn, đau nhói, thấu
tận xương tuỷ. Tuy thế nó vẫn không chết bao lâu ác nghiệp ấy chưa cho hết quả
báo của nó.
Kế tiếp những
người coi địa ngục nắm chân người ấy lên đầu chúc xuống và nhận vào trong một vạc
đồng nóng đỏ, đang sôi, cháy rực, cháy hừng. Người ấy bị nấu trong vạc đồng
quay cuồng sủi bọt đó, lúc bị cuốn lên, lúc bị cuốn xuống, và lúc bị cuốn
ngang. Ở đó người ấy cảm giác những cảm thọ đau đớn, đau nhói, thấu tận xương
tuỷ. Tuy thế nó vẫn không chết bao lâu ác nghiệp ấy chưa cho hết quả báo của
nó.
Kế tiếp những
người coi địa ngục ném người ấy vào Đại Địa Ngục. Và này các Tỳ-kheo, về Đại Địa
Ngục đó:
Nó có bốn
góc và
Bốn cửa ở bốn
bên,
Tường sắt
bao chung quanh,
Với mái sắt bên trên,
Sàn cũng
làm bằng sắt
Được nung
nóng với lửa.
Toàn bộ một
trăm lý
Sức nóng
bao phủ khắp.
Này các Tỳ-kheo,
bằng nhiều cách Ta có thể nói cho các ông về địa ngục. Song cái khổ ở địa ngục
thì nhiều đến nỗi khó mà có thể tìm ra được một ví dụ.
Ở đây, tôi
muốn hỏi quý vị: Quý vị cảm thấy thế nào nếu quý vị bật một cây diêm và dùng ngọn
lửa ấy để đốt ngón tay của quý vị trong một phút thôi? Có phải nó rất đau
không? Và bây giờ quý vị thử suy xét xem: Nếu toàn thân quý vị bị đốt cháy hay
bị nấu sôi trong địa ngục một thời gian dài quý vị sẽ cảm thấy như thế nào? Đức
Phật không có ý định làm cho chúng ta sợ hãi với những gì ngài nói trong kinh,
mà ngài chỉ đưa ra những sự thực cốt để đánh thức ước muốn thiện mạnh mẽ trong
chúng ta để nỗ lực thực hành ngõ hầu tránh rơi vào tình trạng đáng thương như
thế mà thôi.
Nếu chúng
ta có niềm tin nơi Đức Phật, chúng ta sẽ có ước muốn thiện mạnh mẽ trong tâm để
thực hành, nhờ thế thoát khỏi cái khổ của tử sanh luân hồi. Ước muốn thiện này
chính là dục như ý túc (dục-làm căn bản cho sự thành công), một trong tứ như ý
túc . Tại sao nó lại được gọi là căn bản cho sự thành công? Bởi vì nó giúp
chúng ta vượt qua các chướng ngại và khơi dậy sức tinh tấn lớn nhất để thực
hành liên tục cho đến khi chúng ta thành tựu mục đích của chúng ta. Loại tinh tấn
này là một căn bản cho sự thành công khác — cần như ý túc.
Ngoài hai căn
bản này ra, chúng ta cũng nên trau dồi hai căn bản cho sự thành công khác, đó
là tâm-làm căn bản (tâm như ý túc), và trạch pháp-làm căn bản (thẩm như ý túc).
Tâm-làm căn bản cho sự thành công là sự thích thú cực độ của tâm đối với Pháp
(Dhamma) và dán áp tâm vào Pháp. Trạch pháp-làm căn bản cho sự thành công là
trí tuệ, chẳng hạn như trí tuệ phát sinh từ việc suy xét đến cái khổ của địa ngục.
Nếu quý vị muốn phát triển khả năng thực hành Pháp (Dhamma) liên tục cho dù quý
vị đã gặp nhiều thất bại, quý vị phải có niềm tin vững chắc nơi Đức Phật, Giáo
Pháp và Chư Tăng, và thường xuyên trau dồi tứ như ý túc hay bốn pháp làm căn bản
cho sự thành công này.
Trong Kinh
Hiền Ngu (Bālapaṇḍita Sutta) Đức Phật đưa ra một ví dụ để chỉ cho chúng ta thấy
kẻ ngu phải chịu khổ bao lâu trong những khổ cảnh. Ngài nói:
‘Giả sử một
người kia ném vào biển cả một cái ách với một lỗ tròn trên đó, trên đó gió đông
đưa nó về hướng tây, gió tây đưa nó về hướng đông, gió bắc đưa nó về hướng nam,
và gió nam đưa nó về hướng bắc. Và có một con rùa mù cứ cuối mỗi thế kỷ lại trồi
lên một lần. Các ông nghĩ thế nào, này
các Tỳ-kheo? liệu con rùa mù có xỏ đầu của nó vào cái lỗ trên cái ách đó được
không?’
‘Bạch Đức
Thế Tôn, Đôi khi nó cũng có thể xỏ đầu vào được sau một thời gian dài thật
dài.’
‘Này các Tỳ-kheo,
để chui đầu vào trong cái ách chỉ có một cái lỗ trên đó con rùa mù ấy còn mất
ít thời gian hơn là một người ngu, một khi đã đi đến sự diệt vong, muốn trở lại
trạng thái làm người, ta nói như vậy. Tại sao? Bởi vì không có sự thực hành
Dhamma (Pháp) ở đó, không có sự thực hành những điều chân chánh, không làm được
những điều thiện, không thực hiện được những nghiệp công đức. Ở đó, chỉ có ăn
thịt lẫn nhau và kẻ mạnh giết kẻ yếu thịnh hành.’
Từ ví dụ
con rùa mù Đức Phật đưa ra ở trên, chúng ta biết rõ rằng một khi người ta đã
rơi vào một khổ cảnh nào đó rồi, thời gian họ phải trải qua để trở lại trạng
thái làm người rất khó mà tưởng tượng được. Ở đây, cho tôi hỏi quý vị một câu hỏi:
Liệu có xứng đáng để sống một cuộc đời dễ duôi, hưởng thụ các dục lạc trong sáu
mươi hay bảy mươi năm, không thực hành Pháp (Dhamma), để rồi cảm thọ cái khổ địa
ngục trong hàng ngàn hàng triệu năm không? Để tôi kể cho quý vị nghe một câu để
chỉ cho quý vị thấy rằng làm điều đó là ngu ngốc như thế nào.
Trong thời
kỳ Đức Phật Ca Diếp (Kassapa), có bốn người bạn. Họ là con trai của những thương gia giàu có. Một
hôm, họ bàn luận với nhau về việc nên
làm gì trong cuộc sống của mình. Một người trong đó nói: ‘Với một vị Phật vĩ đại
như vậy xuất hiện, du hành từ nơi này đến nơi khác tốt đẹp như vậy! chúng ta sẽ
bố thí, làm những việc công đức, và giữ giới đi?’ Nhưng không người nào đồng ý
với đề nghị ấy. Một người nói: ‘Chúng ta hãy dùng thì giờ để uống rượu và ăn thịt.
Đó sẽ là cách có ích cho chúng ta để sống
trong cuộc đời này.’ Cuối cùng một người nữa nói: ‘Này các bạn, có một điều duy
nhất cho chúng ta làm. Không có người đàn bà nào lại từ chối sống với một người
đàn ông cho họ tiền cả. Chúng ta hãy cho vợ của những người đàn ông khác tiền
và hành dâm với họ.’ ‘Tốt, tốt!’cả bọn la lên đồng ý với đề nghị của anh ta.
Từ đó trở
đi họ gởi tiền đến cho những phụ nữ đẹp, hết người này tới người khác, và trong
suốt hai ngàn năm như vậy, họ phạm tội tà dâm. Khi họ chết, họ bị tái sanh vào
Địa Ngục Avīci (A-tỳ), ở đây họ bị hành hạ khổ sở suốt khoảng thời gian giữa
hai vị Phật. Sau khi chết tại đó, do quả của ác nghiệp mà họ làm chưa hết, họ bị
tái sanh vào Địa Ngục Vạc Đồng Sôi, rộng sáu mươi lý. Sau khi chìm xuống trong
ba mươi ngàn năm, họ chạm tới đáy, và sau khi nổi lên trong ba mươi ngàn năm, họ
lại chạm tới được mép vạc. Mỗi người trong họ đều muốn đọc lên một bài kệ,
nhưng tất cả cái mà họ có thể làm là thốt lên mỗi người chỉ một vần, ‘du’,
‘sa’, ‘na’, ‘so’. Rồi họ lại lóp ngóp và chìm xuống lại vào Vạc Đồng Sôi.
Vào thời
gian đó, Đức Vua Ba-tư-nặc (Pasenadi) đang tìm cách giết một người đàn ông để
đoạt cô vợ xinh đẹp của anh ta. Do ý đồ ấy mà ban đêm đức Vua không tài nào ngủ
nổi, và tình cờ nghe được bốn âm thanh khiếp đảm trên. Đức Vua lo sợ rằng mình
sẽ gặp một chuyện nguy hiểm nào đó. Theo lời khuyên của hoàng hậu Mạt-lợi
(Mallika) Đức Vua đi đến gặp Đức Phật để hỏi xem ý nghĩa của bốn âm thanh này
là gì.
Đức Phật giải
thích cho nhà vua biết những hành động mà bốn con người ngu si kia đã làm và hậu
quả họ phải gặt do hành động ấy. Kế tiếp Đức Phật đọc bốn câu kệ còn bỏ dở của
bốn ác nhân đó như sau:
Một đời xấu
xa chúng tôi đã sống, không biết xẻ chia những gì mình có.
Tất cả tài
sản của chúng tôi, không làm nơi trú ẩn cho mình được.
Sáu mươi
ngàn năm bị nấu sôi trong địa ngục, biết đến khi nào mới dứt đây?
Không có chỗ
chấm dứt. Mà chấm dứt từ đâu đến?
Chấm dứt
không xuất hiện; vì cả anh và tôi đều phạm tội.
Hãy chắc chắn
rằng khi tôi từ đây đi và nếu được tái sanh làm người,
Tôi sẽ sống
hào phóng (bố thí), thọ trì giới luật và
làm thật nhiều điều thiện.
Bốn người
ngu si ấy đã gặp Giáo Pháp của Đức Phật Ca Diếp, nhưng họ không hiểu được giá
trị của việc gặp đó. Chỉ khi họ bị tái sanh vào địa ngục họ mới ăn năn hối cải,
nhưng lúc đó thì đã quá trễ. Ngày nay có nhiều người đã có được thân người khó
có, và đã gặp được Giáo Pháp của Đức Phật khó gặp, nhưng hầu hết trong họ không
hiểu được những lời dạy giá trị của Đức Phật, và vẫn còn đắm chìm trong các dục
lạc. Quý vị có muốn theo gương những con người ác này không?
Nếu quý vị
không muốn bỏ lỡ Giáo Pháp của Đức Phật khó gặp này, và nếu quý vị không muốn cảm
thọ cái khổ của địa ngục, quý vị phải phát triển một niềm tin mãnh liệt. Quý vị
phải tin rằng nếu quý vị thực hành tam học — giới, định và tuệ theo những lời dạy
của Đức Phật, quý vị có thể đạt đến đạo quả nhập lưu, nhờ đó quý vị sẽ không
bao giờ rơi trở lại vào bốn ác đạo. Và nếu quý vị đạt đến quả vị A-la-hán , quý
vị sẽ không bao giờ tái sinh lại nữa. Dựa trên niềm tin mãnh liệt này, quý vị sẽ
đề khởi ước muốn thiện mạnh mẽ hay dục như ý túc, tinh tấn như ý túc, và thực
hành với sự kiên trì cho đến khi quý vị đạt đến quả vị A-la-hán.
Cầu mong
cho quý vị sớm đạt được quả vị A-la-hán.
Tôn Giả Āciṇṇa,
Dhammācariya – Pháp Sư
Aggamahākammaṭṭhānācariya
– Đại Trưởng Lão Thiền Sư
Trưởng Ban
Thiền Sư và Cố Vấn Thiền
Trung Tâm Rừng
Thiền Phật Học Quốc Tế Pa-Auk, Myanmar