Cứ thế mà ta dừng hết
trạm nầy đến trạm khác. Sau mỗi trạm, ngoài hành trang cũ, ta lại nhận
thêm những hành trang mới. Lớp cõng trên vai, lớp xách, lớp kéo, lớp ôm…
Chúng ta hãy ngồi yên mà nghiền ngẫm cho một cuộc hành trình, chỉ là một cuộc
hành trình ngắn thôi thì chúng ta cũng đủ mệt với bao nhiêu thứ chuyện; nào là
hành trang, nào là tiền, nào là vé… Chứ đừng nói chi đến một chuỗi dài của một
kiếp luân hồi, nó vô hạn, vô định. Nó không có khởi đầu, mà cũng không có
chấm dứt. Không ai biết được mình đã bắt đầu từ lúc nào, và cũng không ai
biết được điểm đến sau cùng của mình là đâu?
Tâm trạng của một lữ hành ngay trong một chuyến đi
ngắn hạn cũng muốn gói gọn hành trang, càng ít càng tốt, càng gọn nhẹ càng
khỏe; huống hồ là hành trang cho một kiếp luân hồi, ai lại không muốn cho càng
gọn nhẹ là càng tốt. Ngặt vì tham nên cứ gom, gom mãi cho đến một lúc nào
đó nhiều quá, không còn trạm nào dám chứa, nên chỉ còn một trạm duy nhất để
vào: ấy là địa ngục. Hành trang ngoài đời như là cái va-li, vật dụng và
tiền bạc… nếu thấy quá nặng còn có thể quẳng bớt đi, dù có tiếc hay không
tiếc. Còn hành trang cho một kiếp luân hồi là tội phước, ác nghiệp và
thiện nghiệp; muốn quăng bỏ cũng không được. Đâu có giản đơn như vậy
được? Muốn chuyển hóa các nghiệp từ ác ra thiện, không đơn giản; nó không
đơn giản như chuyện mình vứt bỏ một món đồ. Tuy nhiên, nói như vậy không
có nghĩa là không làm được.
Đức Thế Tôn đã đến với trần gian này và Ngài đã vẽ
lại hình ảnh của một con người biết cách ném bỏ hành trang cho một kiếp luân
hồi. Ngài đã vẽ lại một bức tranh thực: hình ảnh của một con người quyết
tâm giác ngộ đã ngồi liên tục bốn mươi chín ngày đêm dưới cội Bồ Đề. Ngài
quyết không rời chỗ nếu không đắc quả Vô Thượng. Ngài đã chỉ rõ một ngày
tìm lại với chính mình là một ngày ta không gom thêm hành trang mới, mà ngược
lại ta còn quẳng bớt đi những hành trang năm cũ. Ngài đã thực chứng rằng
ngồi thiền chẳng những là trở về với thực tại, sống tỉnh thức và lần trở về tự
tánh; mà ngồi thiền còn giúp ta đóng hoặc khép bớt lại tam nghiệp nơi thân,
khẩu, và ý. Lúc ngồi ta không phát ra cử chỉ hoặc hành động nơi thân;
không nói lời thiện ác nơi khẩu; cũng không nghĩ về thiện ác nơi ý.
Lúc ngồi
thiền thì thân đã ngồi đó, đâu còn sát sanh, trộm cắp, tà dâm gì được; khẩu đã
khép, ít nhất là khép với người khác, thì đâu còn để nói dối, hoặc nói lời đâm
thọc, hoặc nói lưỡi hai chiều… Chỉ còn duy nhất có ý cần là phải coi
chừng. Thế là lúc thiền hóa ra ta đã cột được hai, chỉ còn lại có một nơi
ý là phải coi chừng. Chỉ ngồi mà chưa đi sâu vào thiền là ta đã dẹp được
hai tên giặc lớn rồi. Như vậy, ngồi thiền, cho dù là mới ngồi, ta cũng đã
quẳng được hai phần ba hành trang thừa thãi rồi. Bây giờ nói về ý.
Ý là cái gì vô hình, vô tướng, nhỏ lớn không ai biết; có điều nó đi với một tốc
độ cực nhanh. Chính vì vậy mà ta rất khó kiểm soát và chỉ huy ý.
Theo Đức Phật thì muốn trị ý ta có ba cách: Trì Giới, Nhẫn Nhục và Thiền
Định. Trong phạm vi bài nầy chúng ta chỉ
nói về thiền định mà thôi.
Trong ba thứ Bố Thí, Trì Giới, và Thiền Định thì Thiền Định
là cái gì đơn giản và dễ thực hành nhất. Hãy ngồi yên mà nghĩ thân nầy có
tướng mạo, có sanh diệt là vô thường. Tâm
tuy không có tướng mạo, nhưng sanh diệt liền liền nên cũng vô thường.
Niệm đến, niệm đi, niệm sanh, niệm diệt cũng vô thường. Chính vì những
cái vô thường nầy mà ta quyết không nhận, không theo, không mời, không giữ,
không đuổi.
Ngài đã thực sự trở về với thực tại, Ngài đã hoàn toàn tỉnh
thức để chứng thực những điều nầy qua chính bản thân Ngài. Ngài đã quẳng
hết hành trang qua cửa thiền. Chúng ta là những người con Phật cũng quyết
học ở Ngài; học cho tới khi nào không còn một chút hành trang nào cho kiếp luân
hồi để cùng nắm tay quý Ngài mà dạo chơi nơi cõi vô sanh. Hãy như chư
Phật, đến và đi một cách tự tại, chứ không mang theo bất cứ hành trang nào.