Giáo Pháp Đức Phật dạy tất cả là về
sự hiểu biết khổ - nguồn gốc của khổ, sự chấm dứt khổ, và con đường dẫn đến
diệt khổ. Khi chúng ta quán niệm sự khổ, chúng ta tìm thấy chúng ta đang có
tham vọng, bởi vì tham vọng và đau khổ là những điều tương tự.
Tham vọng có thể được so sánh với
lửa. Nếu chúng ta nắm bắt lửa, những gì xảy ra? Liệu nó có dẫn đến hạnh phúc
không? Nếu chúng ta nói: 'Ôi, hãy nhìn vào đóm lửa nó thì rất đẹp! Hãy nhìn vào
màu sắc đẹp đó! Tôi yêu màu đỏ và màu da cam, nó là màu sắc tôi yêu thích, 'và
sau khi nắm bắt được lửa, chúng ta sẽ cảm nhận một số đau khổ nhất định nhập
vào cơ thể. Và sau đó nếu chúng ta suy ngẫm về nguyên nhân của sự đau khổ đó,
chúng ta sẽ nhận ra rằng đó là kết quả của việc nắm bắt lửa. Với những điều đó,
hy vọng chúng ta sẽ buông bỏ lửa. Một khi chúng ta đã buông bỏ lửa, sau đó
chúng ta biết rằng nó là một cái gì đó không dính mắc. Điều này không có nghĩa
là chúng ta phải ghét lửa, hoặc đặt nó ra ngoài. Chúng ta có thể tận hưởng lửa,
có thể không? Điều tốt đẹp để có một ngọn lửa, nó giữ cho căn phòng ấm áp,
nhưng chúng ta không để mình bị đốt cháy bởi nó.
Khi chúng tôi thực sự quán xét sự
đau khổ, chúng ta không còn nặng về nắm giữ các ham muốn, bởi vì sự ham muốn
đem lại đau khổ, không cần thiết để thực hiện nó. Do vậy, từ đó, chúng ta hiểu,
"Oh! Đó là lý do tại sao tôi đang đau khổ, đó là nguồn gốc của đau khổ.
Ah! bây giờ tôi đã hiểu. Sự nắm giữ mong muốn là nguyên nhân gây cho tôi tất cả
đau đớn và khổ sở này, tất cả điều này vì sợ hãi, vì lo lắng, vì momg cầu, rồi
tuyệt vọng, rồi hận thù, tham lam, và si mê. Tất cả các vấn đề của cuộc sống
đến từ sự nắm bắt và bám vào ngọn lửa của dục vọng.
Thói quen của con người là bám víu
vào ước muốn ăn sâu trong lòng. Chúng ta ở Tây Phương nghĩ rằng chúng ta rất
tinh tế và học hiểu nhiều, nhưng khi chúng ta thực sự bắt đầu tìm hiểu xem việc
gì đang diễn ra trong tâm trí chúng ta, thì thật là đáng sợ – phần lớn chúng ta
đều quá vô minh. Chúng ta không có một dấu vết gì về việc chúng ta là ai, hoặc
điều gì là nguyên nhân của đau khổ, hoặc cách nào là cách sống đúng nghĩa –
hoàn toàn không có một dấu vết gì về những việc này. Rất nhiều người muốn say
trong men rượu, mơ trong khói thuốc phiện, và làm bất cứ thứ gì để thoát khỏi
đau khổ – nhưng khổ đau của họ vẫn cứ gia tăng. Làm thế nào mà những người Tây
Phương chúng ta có thể kiêu căng và tự hào được, có thể coi chúng ta là người
văn minh được! Thật vậy, chúng ta được học hành, chúng ta có thể đọc và viết,
và chúng ta có những máy móc và những sáng chế tuyệt hảo. Thí dụ như, khi so
sánh với những người trong các bộ lạc ở Phi Châu, họ dường như cổ hũ, mê tín,
có phải vậy không? Nhưng thật ra thì tất cả chúng ta đều đi chung một chiếc
thuyền! Chỉ khác nhau là sự mê tín của chúng ta không giống với họ. Thật sự thì
chúng ta cũng tin vào rất nhiều việc.
Chẳng hạn như, chúng ta cố gắng giải
thích vũ trụ dựa vào những khái niệm, vì nghĩ rằng khái niệm là thực tế. Chúng
ta tin vào lý lẽ, tin vào lập luận – như vậy có thể nói rằng chúng ta tin vào
những điều mà chúng ta không biết. Chúng ta không thực sự hiểu nó (vũ trụ) bắt
đầu như thế nào và kết thúc như thế nào. Nếu chúng ta đọc một cuốn sách và tin
những điều trong sách, tin những điều mà các nhà khoa học nói, chúng ta chỉ tin
mà thôi. Chúng ta nghĩ rằng: “Chúng ta thật là tinh tế. Chúng ta tin những điều
mà các nhà khoa hoc nói. Những người có bằng tiến sĩ – chúng ta tin những điều
họ nói. Chúng ta không tin vào những điều mà các nhà phù thủy nói họ đều là
những kẻ ngu đần, dốt nát. Nhưng tất cả đều là niềm tin, có phải vậy không?
Chúng ta vẫn không hiểu – nhưng nghe có vẻ hay. Đức Phật nói chúng ta nên tự
mình tìm ra chân lý và như vậy chúng ta sẽ không phải tin vào người khác.
Chúng tôi quán xét vũ trụ là vô
thường, chúng ta có thể thấy bản chất vô thường dưới nhiều trạng thái. Từ chiêm
niệm này, trí tuệ phát sinh. Chúng ta không thể tìm thấy gì trong sự thay đổi
của những tình trạng có bất cứ thứ liên tục nào. Mọi việc đều có bắt đầu và đều
có kết thúc, mọi việc đều phát sinh từ khoảng trống và đều quay lại trong khoảng
trống này. Và bất cứ nơi nào chúng ta tìm chúng ta cũng sẽ không tìm thấy bất
kỳ loại cá tính vĩnh cửu nào. Lý do duy nhất chúng ta nghĩ rằng chúng ta có cá
tính là vì chúng ta có trí nhớ, có ý tưởng và có quan niệm về bản thân chúng
ta. Nếu chúng ta thông thái, chúng ta luôn luôn bận tâm, suy nghĩ về mọi thứ.
Về cảm xúc chúng ta có thể chưa được phát triển đến mức ném bỏ tất cả các cơn
nóng giận, la hét và chửi rủa khi chúng ta không làm được theo ý muốn của chúng
ta. Chúng ta có thể nói về các nhà triết học Sophocles và Aristotle, có thể có
các cuộc thảo luận tuyệt vời về các đại triết gia Đức và về Ramakrishna,
Aurobindo, và Đức Phật, và rồi một người nào đó không thỏa mãn những gì chúng
ta muốn và chúng ta nổi cơn giận dữ! Giận sôi tận đỉnh đầu; không có sự ổn định
về cảm xúc.
Có một vị sư tôi biết có một thời đã
rất phức tạp so với một số các nhà sư khác. Ông đã sống ở Bangkok trong nhiều
năm, đã ở trong hải quân Thái Lan, có thể nói tiếng Anh bập bẹ. Ông khá thông
minh và rất có ấn tượng. Nhưng ông đã có vấn đề sức khỏe trầm trọng và cảm thấy
ông không thể sống được với chỉ một bữa ăn mỗi ngày. Trên thực tế, sức khỏe của
ông tồi tệ đến nỗi ông phải hoàn tục [rời khỏi tăng đòan]. Sau đó ông trở thành
một người nghiện rượu! Ông có thể diễn thuyết thật xuất sắc trong khi tâm trí
bị vỡ nát. Ông đã có trí tuệ, nhưng không có đạo đức hoặc không có tĩnh tâm.
Mặt khác, chúng ta có thể có đạo đức
cao và không có trí tuệ. Như vậy thì, chúng ta đang đua đòi trong đạo đức, hoặc
mù quáng trong đạo đức. Hoặc chúng ta có thể định tâm và không có trí tuệ.
"Tôi đang theo một khóa hành thiền và tôi đã phát triển một số thiền định,
một số hiểu biết, nhưng khi tôi về nhà, ồ! Tôi không biết là tôi sẽ có thể hành
thiền được nữa hay không, hoặc thậm chí tôi có thời giờ không. Tôi có quá nhiều
nhiệm vụ, có quá nhiều trách nhiệm. " Nhưng chúng ta sống cuộc sống bình
thường như thế nào thì đó chính là việc hành thiền thực tế. Đi tham dự các buổi
an cư để tĩnh tâm là cơ hội để tạm tránh những trách nhiệm và những công việc
đang đè nặng lên chúng ta, để có thể có được một cái nhìn tốt hơn về hành
thiền. Nhưng nếu các cuộc an cư để tĩnh tâm chỉ được dùng để tạm lánh trong một
vài ngày và chỉ vậy thôi, như vậy thì việc tĩnh tâm không có giá trị to lớn chi
cả. Mặt khác, nếu những ngày an cư đó được sử dụng để quán tưởng về đau
khổ-'Tại sao tôi đau khổ? Tại sao tôi lú lẫn? Tại sao tôi có những rắc rối? Tại
sao thế gian lại là như vậy?' sau đó chúng ta sẽ tìm hiểu xem có điều gì chúng
ta có thể làm để thoát đau khổ?. Chúng ta sẽ tìm ra bằng cách quán tưởng thân
và tâm.
Sự thiếu hiểu biết chỉ là cặn bã
trên mặt nước, nó không có chiều sâu, không có quá nhiều vô minh cần phải phá
vỡ. Sự khiếm khuyết ở đây và bây giờ, ngòi lửa ở đây và bây giờ, chúng ta có
thể cho nó đi. Không cần phải đụng tới ngọn lửa nữa-đó là tất cả những gì cho
nó. Nó không phải là một câu hỏi để dập tan đám cháy. Nhưng nếu chúng ta bắt
được nó, chúng ta nên để cho nó đi. Một khi chúng ta đã để cho ngọn lửa đi, thì
chúng ta không nên bắt nó một lần nữa.
Trong cuộc sống hàng ngày của chúng
ta, chúng ta nên có chánh niệm. Chánh niệm nghĩa là gì? Nó có nghĩa là để ý
thật cẩn thận ngay ở đây, tập trung ý tưởng vào những gì đang xảy ra trong nội
tâm. Ví dụ, Chúng ta đang xem xét một việc gì, và chúng ta cố gắng tập trung vào
việc đó, sau đó một tiếng động vang đến, và sau đó một mùi thơm, sau đó một thứ
này và sau đó một thứ khác - nhiễu loạn, thay đổi. Chúng ta nói: "Tôi
không thể nào có chánh niệm trong môi trường này, nó quá lộn xộn. Tôi phải có
một môi trường đặc biệt, không có phiền nhiễu, thì tôi mới có thể chánh niệm
được. Nếu tôi đi đến một trong những chỗ an cư, sau đó tôi có thể chánh niệm
được, không có phiền nhiễu nơi đó - chỉ có sự thanh tịnh và yên lặng - một sự
tĩnh mịch cao quí! Tôi không thể có chánh niệm ở Edinburgh hoặc London-có quá
nhiều sự lôi cuốn. Và tôi có gia đình, có con cái, quá nhiều ồn ào!
Nhưng chánh niệm không nhất thiết
phải tập trung vào một đối tượng. Nhận thức được sự nhầm lẫn cũng là chánh
niệm. Nếu tất cả mọi thứ dồn đến với giác quan của chúng ta-nào là tiếng ồn,
nào là người ta yêu cầu này nọ - chúng ta không thể tập trung lâu dài vào bất
kỳ một thứ nào. Nhưng chúng ta có thể nhận thức được sự lộn xộn, hoặc sự hồ
hởi, hoặc sự đụng chạm, chúng ta có thể được nhận thức của các phản ứng trong
tâm trí của chúng ta. Đó là những gì chúng ta gọi là chánh niệm. Chúng ta có
thể lưu tâm đến sự nhầm lẫn và sự hỗn loạn. Và chúng ta có thể lưu tâm đến
thanh tĩnh và yên bình.
Con đường chánh niệm là con đường
không ưu đãi. Khi chúng ta thích một điều gì hơn một điều khác, thì chúng ta
tập trung vào điều đó: "Tôi thích thanh bình hơn là rối loạn." Vì
vậy, để có hòa bình, chúng ta làm gì? Chúng ta phải đi đến một nơi nào không có
rắc rối, trở thành một ẩn sĩ, đi lên Orkneys, tìm một hang động. Có một lần,
tôi tìm thấy một hang động thật lý tưởng ở ngoài khơi bờ biển Thái Lan. Nó nằm
trên một hòn đảo nhỏ xinh đẹp ở Vịnh Xiêm La. Và đó là năm thứ sáu mà tôi đã
trở thành một tu sĩ. Tất cả những người Tây Phương đã đến với tu viện Wat Pah
Pong là tu sĩ Tây Phương. Và họ đã gây cho tôi rất nhiều khổ sở và thất vọng.
Tôi nghĩ: 'Tôi không muốn dạy cho những người này, họ là một cái gánh quá nặng,
họ đòi hỏi quá nhiều; tôi muốn tránh xa các nhà sư Tây Phương này, càng xa càng
tốt. "Năm trước tôi đã trải qua một mùa An Cư [3 tháng tĩnh tâm trong mùa
mưa] với năm người khác. Ôi, đó đúng là một mùa An Cư thê thảm nhất! Tôi nghĩ:
"Tôi sẽ không chịu đựng như vậy nữa! Tôi không đến đây để chịu đựng như
vậy; tôi đến đây để được bình an.' Vì vậy, tôi viện ra một số lý do để đi
Bangkok và từ đó tôi tìm thấy hòn đảo này. Tôi nghĩ rằng nó thật hoàn hảo. Họ
đã có những hang động trên đảo và những túp lều nhỏ trên bãi biển. Sự thiết lập
thật là hoàn hảo cho một tu sĩ.
Người ta có thể nhận một trong những túp lều và
sống trong đó. Và sau đó đi khất thực trong làng. Dân làng đều rất thân thiện,
đặc biệt là đối với các nhà sư Tây Phương, vì là một tu sĩ phương Tây quả thật
là rất khác thường. Chúng ta có thể dựa vào đó để có tất cả thực phẩm chúng ta
có thể ăn, và nhiều hơn nữa. Đó không phải là một nơi có thể dễ dàng đến được,
vì nó ở ngoài khơi trong vịnh Thái Lan, và tôi nghĩ: '. Ồ, họ sẽ không bao giờ
tìm thấy tôi ngoài này, những nhà sư Tây phương, họ sẽ không tìm thấy tôi ở
đây." Và sau đó tôi tìm thấy một hang động, với một Jongram, và nơi đây
thật là đẹp. Nó có một phòng bên trong hoàn toàn đen tối và không một thứ âm
thanh nào có thể thâm nhập vào được. Tôi đã bò vào trong qua một lỗ hổng và bên
trong không có gì. Tôi không thể nhìn thấy hay nghe thấy bất cứ điều gì. Vì
vậy, thật là lý tưởng cho việc giảm thiếu cảm giác: "Ồ, đây đúng là những
gì tôi đang tìm kiếm, tôi có thể thực hành tất cả các tình trạng thiền tối cao.
Tôi có thể đi vào hang động này và chỉ để tu tập hàng giờ mà không có loại kích
thích giác quan nào.' Tôi thực sự muốn xem những gì sẽ xảy ra. Nhưng có một vị
sư già sống trong hang động này, ông không chắc là ông sẽ ở lại đây không. Dù
sao, ông nói tôi có thể có túp lều cỏ trên đỉnh đồi. Tôi đã đi lên đó nhìn, và
phía dưới là biển. Tôi nghĩ, 'Ồ, đây cũng là chuyện tốt vì bây giờ tôi có thể
tập trung vào biển cả, thật là phẳng lặng.'
Có một nhà sư Thái Lan trên đảo ông
là một người bạn rất tốt của tôi và ông nói: "Vâng, họ có thể tìm thấy bạn
ở đây, có một hòn đảo cách đây khoảng mười lăm dặm - Họ sẽ không bao giờ tìm
thấy bạn ở đó. Có một túp lều nhỏ ở đó, và một ngôi làng nhỏ, dân trong làng
rất sẳn lòng chăm sóc của một tu sĩ.” Vì vậy, tôi đã suy nghĩ: " Vậy à, có
thể sau mùa An Cư, tôi sẽ đi ra ngoài hòn đảo xa đó."
Thực sự tôi nhứt định trốn thoát.
Tôi muốn được thanh thản và tôi thấy các nhà sư Tây phương rất khó hiểu. Họ
luôn luôn đặt rất nhiều câu hỏi và đòi hỏi quá nhiều. Vì vậy, tôi đã sắp xếp để
sống một mùa An Cư trong khung cảnh thôn dã. Và sau đó - lại bị đau chân! chân
phải của tôi đã bị nhiễm trùng nghiêm trọng và họ phải đưa tôi ra khỏi hòn đảo
để vào bệnh viện địa phương trên đất liền. Sức khỏe tôi rất kém. Họ không cho
tôi đi trở lại đảo và tôi đã phải sống một mùa An Cư trong một tu viện gần thị
trấn. Đau buồn, thất vọng và oán giận nổi lên chỉ vì cái chân này, tất cả vì
tôi đã gắn bó, quá ham muốn sự tĩnh lặng. Tôi muốn thoát khỏi sự xáo trộn của
thế giới, tôi thực sự mong muốn được nhốt mình trong một ngôi mộ nơi mà giác
quan của tôi sẽ không bị ảnh hưởng, nơi mà không một nhu cầu nào có thể áp đặt
lên tôi, nơi mà tôi sẽ được sống một mình, ẩn danh, vô hình. Nhưng sau đó tôi
chiêm nghiệm về thái độ của tôi, tôi nghiệm ra cái ham muốn được thanh tĩnh của
tôi. Và tôi đã không tìm kiếm sự tĩnh lặng nữa..
Tôi không bao giờ trở lại hòn đảo
đó. Chân tôi đã tương đối lành lặn và tôi lại có một cơ hội để đi đến Ấn Độ.
Rồi, sau đó tôi đã trở lại tu viện Wat Pah Pong, và đến lúc đó tôi đã quyết
định không chọn lựa hơn kém nữa. Việc tu tập của tôi là "cách thức không
phân biệt ", tôi chỉ sẽ nhận những gì khi chúng đến. Trong chuyến trở về
tu viện Wat Pah Pong, tôi lãnh trách nhiệm là một người thông dịch cho Ngài
Ajahn Chah. Tôi chán ngán phải thông dịch cho người Tây phương, nhưng bây giờ
tôi lại là một thông dịch viên. Tôi đã phải làm điều đó, và tôi cũng phải giảng
dạy và đào tạo tu sĩ. Sau đó hơn một năm họ thậm chí đã gửi tôi ra ngoài để bắt
đầu thực hiện một tu viện của riêng tôi! Trong vòng hai năm có khoảng hai mươi
nhà sư Tây Phương sống chung với tôi. Sau đó, tôi được mời đến nước Anh.
Và vì vậy tôi không hề lẫn tránh nơi
đông đảo để đi đến hang động đó, vì tôi không còn ham muốn lựa chọn chỗ tốt.
Trách nhiệm và việc giảng dạy dường như càng ngày càng nhiều hơn, nhưng đó là
một phần của việc tu tập cái gọi là "không ham muốn." Và qua sự tu
tập này tôi nhận thấy tâm hồn tôi bình an và thanh thản. Tôi không còn tức giận
trước những yêu cầu đòi hỏi nơi tôi, không còn chìm trong sân hận hoặc bối rối
trước những trở ngại liên tục xảy ra và trước những nhầm lẫn nảy sinh trong xã
hội loài người. Vì vậy sự tu tập này đúng là chánh niệm. Tôi không còn miệt mài
mong đợi một sự tĩnh lặng. Sự tĩnh lặng đến và tôi coi đó như là vô thường. Bối
rối đến - cũng là vô thường; Thanh thản - cũng là vô thường; chiến tranh - cũng
là vô thường. Tôi tiếp tục nhìn bản chất vô thường của mọi tình huống và tôi
chưa từng bao giờ cảm thấy thanh thản đối với thế giới nhiều như bây giờ; sống
trong nước Anh - nhiều hơn là tôi đã từng sống, hình như là, một vài ngày trên
hòn đảo đó. Vào khỏang thời gian đó tôi đã bám víu một cách tuyệt vọng vào
những lý tưởng của cái tôi muốn và đi đôi với việc đó là phải đối diện với sự
sợ hãi sẽ bị mất đi - Tôi đã sợ rằng người Tây Phương sẽ đến và sẽ làm phiền
tôi và sợ rằng khung trời thanh tĩnh của tôi sẽ bị khuấy động. Có một sự ích kỹ
rỏ ràng liên quan tới việc từ chối và đóng kín cửa không chấp nhận người khác,
và một sự sợ hải rỏ ràng rằng người khác rất có thể sẽ hũy hoại nó. Vì vậy sự
ham muốn thanh nhàn này và những điều kiện của nó không thể nào tránh khỏi việc
đem theo sự sợ hãi và niềm lo lắng, bởi vì mọi điều kiện đều có thể bị mất đi
hoặc bị phá hủy một cách dễ dàng. Tuy nhiên, loại thanh tĩnh mà chúng ta có thể
nhận được từ cái "không ham muốn" không thể nào bị lấy đi. Nó không
bao giờ bị lấy đi vì chúng ta có thể thích ứng; chúng ta không tùy thuộc vào
môi trường để có tĩnh lặng; chúng ta không cần phải tìm kiếm sự tĩnh lặng, hoặc
phải chờ đợi nó, hoặc phải tức giận bối rối. Vì vậy, khi chúng ta đối chứng với
lời giảng của Đức Phật [ khổ, nguồn gốc của đau khổ, sự diệt đau khổ, và con đường
dẫn đến diệt khổ], chúng ta có thể nhận ra rằng Ngài đã dạy chúng ta con đường
"không ham muốn."
Đức Phật Ngài đã giác ngộ. Ngài đã
dành sáu năm tu khổ hạnh là một sự hành trì yên tĩnh để đạt được đến mứccao
nhất của sự hấp thụ, và Ngài nói: "Không! sự tu tập này không đúng! Sự tu
tập khổ hạnh vẫn còn đau khổ. Sự tu tập này vẫn còn ảo tưởng. " Và, từ
nhận thức rằng Ngài đã tìm thấy con đường Trung Đạo, con đường của "không
ham muốn", con đường của tỉnh thức.
Chúng ta không nên mong cầu được yên
tĩnh nếu chúng ta đang sống trong một môi trường mà mọi người rộn ràng hoặc
không yên tĩnh, hoặc nơi mà chúng ta có nhiều trách nhiệm và nghĩa vụ. Chúng ta
không nên nghĩ rằng: "Oh! Tôi muốn được ở một nơi khác, tôi không muốn ở
đây ". Sau đó, chúng ta thực hiện một sở thích. Chúng ta nên quan sát quan
cảnh chung quanh của cuộc sống mà chúng ta có mặt dù chúng ta có muốn hay
không, nó đang thay đổi, dù sao đi nữa, thì nó không quan trọng.
Trong cuộc sống 'cái thích' có xu
hướng thay đổi thành 'cái không thích', và ngược lại 'cái không thích' có xu
hướng thay đổi thành 'cái thích.' Ngay cả những tình huống vui vẽ cũng thay đổi
thành những tình huống tẻ nhạt, và những tình huống tẻ nhạt cũng trở thành vui
vẽ. Chúng ta phải nên lưu ý đến nhận thức về vô thường này và phải thản nhiên
trước mọi việc đổi thay như vậy, không nên đòi hỏi mọi việc phải diễn ra theo
chiều hướng khác.
Những người chúng ta sống chung, những nơi chúng ta sống
trong đó, xã hội mà chúng ta là một phần tử -chúng ta chỉ nên giử sự hài hòa
với tất cả mọi thứ. Nhưng quan trọng hơn hết chúng ta nên bình tâm với chính
chúng ta-đó là bài học to lớn phải học hỏi trong cuộc sống. Thực ra rất là khó
khăn để được bình tâm với chính mình. Tôi thấy rằng hầu hết mọi người đều có
rất nhiều bất mãn với chính mình. Tốt hơn hết là chúng ta nên hài lòng, bình
tâm với chính thân xác và tâm trí chúng ta hơn bất cứ điều gì khác, và không
nên đòi hỏi rằng thân xác và tâm trí chúng ta phải thật là hoàn hảo, và chúng
ta phải thật là hoàn hảo, hoặc đòi hỏi rằng tất cả mọi thứ đều tốt đẹp. Chúng
ta có thể hài lòng, bình tâm với cả cái tốt lẫn cái xấu.
Với phước báu mà con tạo nên hôm nay
xin hồi hướng đến hương linh của mẹ là Thái Huê, cầu mong bà được thượng hưởng
phước lành và chóng viên thành đạo quả.
Phật tử Thiện Pháp Nguyễn Văn Hòa và
Minh Hạnh