Phật-Bảo (Buddhatarana), Pháp-Bảo
(Dhammaratana) và Tăng-Bảo (Sangharatana), là ba món báu quí trọng hơn tất cả
bảo vật Hữu-Tri (Savinnanakaratana) và Vô-Tri (Avĩnnãnakaratana) trong Tam-Giới
và hằng có năng lực đem sự an-vui đến cho chúng-sanh trong ba cõi.
Ân-Ðức của Phật Vô-Lượng Vô-Biên,
không thể kể cho xiết hoặc suy xét cho cùng tận, nhưng nói tóm lại có ba Ân-Ðức
trọng đại là:
1) Visuddhi Guna (Tịnh-Ðức): Ngài đã
xa lìa tất cả Phiền-Não thô-sơ và vi-tế, nên Thân, Khẩu, Ý của Ngài đều được
trọn lành. Trước mắt người hoặc nơi khuất-lấp, Ngài cũng không hề làm, nói và
tưởng điều tội-lỗi.
2) Karunã Guna (Bi-Ðức): Ngài thấy
chúng-sanh đang bị nóng-nảy lăn-lộn trong lửa Ngũ-Dục, đang chìm-đắm chơi-vơi
trong biển Trần-Ai, chịu thống-khổ vô-cùng vô-tận từ đời này qua kiếp khác nên
Ngài phát Tâm Bi-Mẫn bao la đối với tất cả chúng-sanh, chẳng khác nào người Mẹ
hiền thương xót đàn con dại, mong-mỏi con khỏi khổ, được vui lâu dài. Từ khi
còn tu hạnh Bồ-Tát, Ngài đã từng hy-sinh thân-mạng, vợ con, của cải để tìm
phương cứu-vớt chúng-sanh; đến khi thành đạo rồi, Ngài lại châu du phổ độ quần
sanh không ngừng nghỉ trọn 45 năm trường đăng-đẳng.
3) Pannã Guna (Tuệ-Ðức): Ngài có Trí-Tuệ
hoàn toàn sáng-suốt, không có chi che án được, thông-suốt cả ba giới, bốn loài,
thấu triệt Lý Tứ-Diệu-Ðế là thấy rõ, biết rõ Ái-Dục Phiền-Não; nguyên-nhân sanh
ra Ái-Dục Phiền-Não, nơi diệt tận Ái-Dục Phiền-Não và phương-Pháp diệt trừ
Ái-Dục Phiền-Não. Do nhờ Trí-Tuệ hoàn toàn sáng suốt ấy nên Ngài tri tỏ nghiệp
nào có sự lợi ích, nghiệp nào có sự nguy hại, hầu tìm phương tiện giáo huấn
chúng-sanh xa lánh các điều ác, làm những việc lành để sớm đến bờ Giác-Ngộ.
Do nhờ 3 Ân-Ðức ấy, Ðức Phật mới có
thể tế-độ chúng-sanh, luôn cả Chư-Thiên và Nhân-Loại một cách dễ-dàng được.
Vô-lượng vô-biên Ân-Ðức khác của Ðức
Phật đều bắt nguồn từ ba Ân-Ðức trọng đại ấy, cũng như muôn loài thảo mộc chỉ
do mặt điạ cầu mà phát sanh ra vậy.
Nếu kể rộng hơn, những Ân-Ðức cao-cả
của Ngài có thể tóm-tắt trong 10 danh hiệu sau đây:
ARAHAM (Tàu dịch là Ứng-Cúng)
SAMMÃSAMBUDDHO (Chánh-Biến-Tri)
VIJJÃCARANASAMPANNO (Minh-Hạnh-Túc)
SUGATO (Thiện-Thệ)
LOKAVIDŨ (Thế-Gian-Giải)
ANUTTARO (Vô-Thượng-Sĩ)
PURISADAMMASÃRATHI (Ðiều-Ngự-Trượng-Phu)
SATTHADEVAMANUSSÃNAM (Thiên-Nhân-Sư)
BUDDHO (Phật)
BHAGAVÃ (Thế-Tôn)
SAMMÃSAMBUDDHO (Chánh-Biến-Tri)
VIJJÃCARANASAMPANNO (Minh-Hạnh-Túc)
SUGATO (Thiện-Thệ)
LOKAVIDŨ (Thế-Gian-Giải)
ANUTTARO (Vô-Thượng-Sĩ)
PURISADAMMASÃRATHI (Ðiều-Ngự-Trượng-Phu)
SATTHADEVAMANUSSÃNAM (Thiên-Nhân-Sư)
BUDDHO (Phật)
BHAGAVÃ (Thế-Tôn)
Xin lần lượt giải về mười hiệu của
Phật, từ hiệu ARAHAM (Ứng-Cúng) đến hiệu BHAGAVÃ (Thế-Tôn).
1) Araham (Ứng-Cúng)
Tại sao Ðức Phật có hiệu là ARAHAM
(Tàu âm là A-La-Hán, dịch là Ứng-Cúng)?
Bởi Ngài là:
Araka: Bậc đã xa lìa Phiền Não
Hata: Bậc đã phá tan bánh xe Luân Hồi
Araha: Bậc xứng đáng
Rahãbhãva: Bậc không nơi khuất lấp.
Hata: Bậc đã phá tan bánh xe Luân Hồi
Araha: Bậc xứng đáng
Rahãbhãva: Bậc không nơi khuất lấp.
Giải rằng:
Bậc đã xa lìa Phiền-Não.
Ðức Phật đã xa lìa tất cả Phiền-Não
là những điều làm cho Tâm bợn nhơ và dắt dẫn chúng-sanh luân hồi mãi trong vòng
lục đạo.
Ba Phiền-Não trọng đại là:
a) Lobha: Tham-Lam là Pháp làm cho
Tâm dính mắc.
b) Dosa: Sân-Hận là Pháp làm cho Tâm nóng nảy ưu-phiền.
c) Moha: Si-Mê là Pháp làm cho Tâm lầm lạc.
b) Dosa: Sân-Hận là Pháp làm cho Tâm nóng nảy ưu-phiền.
c) Moha: Si-Mê là Pháp làm cho Tâm lầm lạc.
Ba Phiền-Não nầy là nguồn-cội của
tất cả Phiền-Não khác, ví như một cây to có 3 nhánh lớn đâm chồi nảy lá ra khắp
tứ phía vậy. (Xin xem các "Phiền-Não" có kể đại khái riêng biệt sau
phần giải hiệu ARAHAM)).
Tất cả điều chướng-ngại là
Phiền-Não, không còn mảy-may nào trong Thân-Tâm Ðức Phật, vì Ngài đã trau-dồi
Thân-Tâm được hoàn toàn trong sạch, thanh-tịnh bằng Giới, Ðịnh, Huệ, bằng
Thánh-Ðạo, Thánh-Quả và Niết Bàn.
Ví như người thợ làm tên, lấy một
khúc cây trong rừng đem về lột vỏ, gọt đẻo cho xong rồi thoa dầu, hơ lửa, uốn
bằng nỏ cho trở nên ngay thẳng, hậu nhiên mới được những cây tên rất tốt và
ngay thẳng.
Cũng như thế ấy, Ngài đã lột vỏ cái
Tâm hằng bị sao động, cho tiêu-hoại cả Phiền-Não, nhờ sự Ẩn-Tu nơi rừng vắng là
tu hạnh Ðầu-Ðà, rồi thoa dầu bằng Ðức-Tin (Saddhã), đốt hơ bằng sự Tinh-Tấn
(Viriya), uốn bằng nỏ là Phép Chỉ-Quán (Sammatha) và Minh-Sát (Vipassanã), làm
cho Tâm trở nên ngay thẳng, diệt trừ các Nghiệp dữ. Kế tiếp, Ngài suy nguyên
thấy rõ căn-bản của Nghiệp Thiện và Ác là những Pháp-Hành (Sankhãra) Ðoạn-Tuyệt
Vô-Minh (Avijjã), đắc Ba cái Giác (Vijjã) [1], Sáu cái Thông (Abhinnã), Bốn Huệ
Phân Tích (Patisamdhidã) [2], Chín Pháp Thánh (Lokuttãra Dhamma) [3], và liễu
chứng bậc Vô-Thượng Chánh-Ðẳng Chánh-Giác.
[1] 3 Cái Giác (hoặc Minh) và 6 cái
Thông: Xin xem giải rộng trong hiệu "Vijjãcaranasampanno"
(Minh-Hạnh-Túc) phía sau.
[2] 4 Cái Huệ Phân Tích:
a) Atthapatisambhidã: Tuệ Biết Rõ
cái quả hay cái lý (là thông-suốt cả nghĩa lý của chú giải tóm-tắt).
b) Dhammapatisambhidã: Huệ Biết Rõ cái nhân hay thông suốt cả các Pháp.
c) Niruttipatisambhidã: Huệ biết rõ Ngữ Căn hay thông suốt các thứ tiếng.
d) Patibhana Patisambhidã: Huệ Phân Tích rõ-ràng và mau lẹ tất cả sự vật.
b) Dhammapatisambhidã: Huệ Biết Rõ cái nhân hay thông suốt cả các Pháp.
c) Niruttipatisambhidã: Huệ biết rõ Ngữ Căn hay thông suốt các thứ tiếng.
d) Patibhana Patisambhidã: Huệ Phân Tích rõ-ràng và mau lẹ tất cả sự vật.
[3] 9 Thánh-Pháp:
Tu-Ðà-Hườn Ðạo
Tu-Ðà-Hườn Quả
Tu-Ðà-Hườn Quả
Tu-Ðà-Hàm Ðạo
Tu-Ðà-Hàm Quả
Tu-Ðà-Hàm Quả
A-Na-Hàm Ðạo
A-Na-Hàm Quả
A-Na-Hàm Quả
A-La-Hán Ðạo
A-La-Hán Quả
A-La-Hán Quả
Niết-Bàn.
Lại nữa chẳng những đã thắng tất cả
quân thù là các Phiền-Não trọng-đại vi-tế thôi, Ngài lại dứt được luôn các
Tiền-Khiên Tật, là những thói quen của Thân, Khẩu, Ý nữa.
Bậc đã phá tan bánh xe Luân-Hồi.
Ðức Phật đã phá-tan, bẻ-gẫy bánh xe
Luân-Hồi và không còn Tái Sanh nữa.
Ta có thể ví dụ "Bánh Xe
Luân-Hồi" (Samsaracakka) gồm có:
* Vô-Minh (Avijjã) làm Ðùm.
* Ba Pháp Hành (Sankhãra) [4] làm Căm.
* Sự Già và sự Chết (Lão, Tử: (Jarã Maranam) làm Vành.
* 29 Tác-Ý (Cetanã) là:
* Ba Pháp Hành (Sankhãra) [4] làm Căm.
* Sự Già và sự Chết (Lão, Tử: (Jarã Maranam) làm Vành.
* 29 Tác-Ý (Cetanã) là:
12 Tác-Ý Ác (Akusala Cetanã) [5]
8 Tác-Ý Ðại Thiện (Mãhãkusala),
5 Tâm Lành trong Sắc-Giới (Kũpãvacara Kusala),
4 Tâm Lành trong Vô-Sắc-Giới (Arũpãvacara Kusala) làm đầu căm tra vào đùm.
8 Tác-Ý Ðại Thiện (Mãhãkusala),
5 Tâm Lành trong Sắc-Giới (Kũpãvacara Kusala),
4 Tâm Lành trong Vô-Sắc-Giới (Arũpãvacara Kusala) làm đầu căm tra vào đùm.
Bánh xe ấy ráp vào thùng xe là
Tam-Giới (Dục-Giới, Sắc-Giới và Vô-Sắc-Giới), làm thành bánh xe Luân-Hồi.
Trong Tam-Giới ví như cái thùng xe
vì Tam-Giới là nơi sanh và trú của chúng-sanh.
Bốn Pháp Trầm-Luân (ãsava) [6] ví
như cái gọng xe vì các Pháp ấy là chủ động, hằng lôi kéo chúng-sanh đến chỗ
Sanh và chỗ Diệt.
[4] 3 Pháp-Hành là:
a) Punnãbhi Sankhãna: Hành Thiện
b) Apunnãbhi Sankhãna: Hành Ác
c) Anenjãbhi Sankhãra: Hành Ðiềm Tỉnh Không Lay Ðộng
b) Apunnãbhi Sankhãna: Hành Ác
c) Anenjãbhi Sankhãra: Hành Ðiềm Tỉnh Không Lay Ðộng
[5] Xin xem giải rộng trọng quyển
"Vi-Diệu Pháp" vấn đáp của Ðại-Ðức Hộ-Tông.
[6] 4 Pháp Trầm-Luân là:
a) Kãmãsavo: Trầm-Luân trong Ái-Dục
(Ngũ-Trần)
b) Bhãvãsavo: Trầm-Luân trong Tam-Giới
c) Ditthãvaso: Trầm-Luân trong Kiến-Thức
d) Avijjãsavo: Trầm-Luân trong Vô-Minh.
b) Bhãvãsavo: Trầm-Luân trong Tam-Giới
c) Ditthãvaso: Trầm-Luân trong Kiến-Thức
d) Avijjãsavo: Trầm-Luân trong Vô-Minh.
Vô-Minh ví như cái đùm xe vì Vô-Minh
là nơi quy-hội của các Nhân-Duyên.
Sự Già và sự Chết ví như vành xe vì
hằng lăn tròn đi tới và đưa chúng-sanh từ cảnh nầy đến cảnh khác.
Ba Pháp-Hành ví như căm bánh xe là
vì bị sự Sanh và sự Chết bao chung quanh.
Ðức Phật đứng vững-vàng hai chân là
sự Tinh-Tấn (Viriya), trên mặt đất bằng-phẳng là Giới (Sĩla), dùng hai tay là
Ðức-Tin (Saddhã) cầm cây gươm bén là Trí-Tuệ (Panna), chặt rã, phá tan từng
mãnh cái xe Luân-Hồi ấy dưới cội Bồ-Ðề, từ đây không còn chở Ngài quanh-quẩn
trong ba cõi, sáu đường được nữa.
Hoặc giả, nếu lấy Thập Nhị Nhân
Duyên làm tượng-trưng cho "Bánh Xe Luân-Hồi", thì:
Vô-Minh làm Ðùm.
Lão, Tử làm Vành.
10 Nhân-Duyên kia (Hành, Thức, Danh-Sắc, Lục-Căn, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sanh) là Căn.
Lão, Tử làm Vành.
10 Nhân-Duyên kia (Hành, Thức, Danh-Sắc, Lục-Căn, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sanh) là Căn.
Ðức Phật thấy rõ, hiểu biết
tường-tận lý "Nhân-Quả Liên-Quan" [7] gồm có 12 Chi (Anga), 3 Thời Kỳ
(Addhã), 20 Thể (Akara), 3 Chỗ Nối Liền (Sandhi), 4 Chỗ Tóm-Tắt (Sankhepa), 3
Sự Luân Chuyển (Vatta) và 2 Gốc (Mũta). Trong khi nhập Ðại-Ðịnh trọn 7 ngày đêm
dưới cội Bồ-Ðề, Ngài đã xem-xét thật vi-tế sự Sanh ra và sự Diệt-Tắt của mỗi
Nhân-Duyên, xem thuận, rồi xem nghịch, cho đến khi phát-sanh Trí-Tuệ thấy rõ
các Pháp Hữu-Vi đều do Nguyên-Nhân mà sanh ra. Khi Nguyên-Nhân bị diệt đi thì
các Pháp ấy cũng diệt tắt theo. Khi thấy rõ như thế rồi, Ngài đắc-đạo Quả
Niết-Bàn, được giải-thoát các sự Thống-Khổ, phá tan Bánh Xe Sanh-Tử Luân-Hồi.
[7] Xin xem giải rộng trong quyển
"Nhân Quả Liên Quan" của Ðại-Ðức Bửu-Chơn.
Bậc Xứng Ðáng.
a) Ðức Phật là đấng toàn trí toàn
thiện, rất xứng-đáng cho Chư-Thiên và nhân-loại lễ-bái cúng-dường. Ngài là
phước điền quí-báu cao-thượng nhất của chúng-sanh.
Sự cúng-dường ấy, chẳng luận vật
cúng ít hay nhiều, hèn-hạ hoặc cao-quí, chẳng luận thí chủ là bậc Vua Chúa
oai-quyền hoặc là hạng cùng đinh nghèo khó, hằng được phước-báu Vô-Lượng nếu
tín thí có đức-tin vững-chắc là tin lý Nhân-Quả và có Tâm lành đầy đủ Tác-Ý [8]
trong sự cúng-dường.
[8] 3 Tác-Ý là:
a) Pubbacetanã: Tác-Ý trong sạch đầu
tiên toan tính
b) Munncanã Cetanã: Tác-Ý trong sạch khi đang dâng cúng
c) Aparãparacetanã: Tác-Ý thỏa-thích sau khi dâng cúng.
b) Munncanã Cetanã: Tác-Ý trong sạch khi đang dâng cúng
c) Aparãparacetanã: Tác-Ý thỏa-thích sau khi dâng cúng.
Trong kinh Dĩpanĩ có câu:
"Tiddhante Nibbute Cãpisanam Cettam Samebhale" nghĩa là: "Khi
Phật còn tại thế hay sau khi đã nhập Niết-Bàn rồi, nếu có thiện-nhân nào có Tâm
trong sạch đồng nhau cúng-dường đến Phật cũng được sự phước báu như lúc Ngài
còn tại thế vậy".
Như thế, ta nên tin-tưởng rằng dầu
khi Ðức Thế-Tôn còn tại thế, hay sau khi Ngài nhập diệt rồi cũng vậy, quả phước
phát sanh do sự cúng-dường đến Ngài hoặc đến tháp thờ xá-lợi của Ngài, cũng
đồng nhau không kém, miễn là thí chủ có đức tin trong sạch và chú tâm trong sự
phước-thiện đồng nhau.
Trong kinh có chép lại rất nhiều sự
tích về sự lễ bái cúng-dường Ðức Thế-Tôn. Từ các hàng Chư-Thiên như Phạm-Thiên
Sahampati cúng-duờng Ngài một tràng hoa bằng ngọc to lớn như núi Tu-Di
(Sineru), Ðức Ðế-Thích (Sakka), Tứ-Ðại-Thiên-Vương (Catumãhãrãja), vv...; các
bậc Hoàng Ðế đồng thời với Ngài như vua Tân-Bà-Sa (Bimbisãra), Vua Ba-Tư-Nặc
(Pasenadi)...; các bậc đại phú hộ như trưởng giả Cấp-Cô-Ðộc (Anãthapindika) và
(Visãkhã), vv...; đến các hạng cùng đinh nghèo-khổ như nàng Sumana Mãlã dâng
bông lài, thầy Bà-La-Môn Culekasataka dâng khăn choàng, vv...
Một thế kỷ sau khi Ðức Thế-Tôn nhập
diệt, Hoàng Ðế A-Dục (Asoka) xuất của kho ra 96 triệu đồng vàng cúng-dường
Tam-Bảo và cho xây cất 84 ngàn thánh tháp trong toàn cõi Ấn-Ðộ.
Nên nói thêm rằng: chẳng những Ðức
Phật là bậc siêu nhân cao-thượng xứng-đáng cho chúng-sanh lễ-bái cúng-dường mà
thôi, các bậc Thánh-Nhân (Thinh-Văn: A-La-Hán, A-Na-Hàm ....) khác đã diệt-tận
Phiền-Não hay còn chút ít Phiền-Não nơi Tâm, hoặc các hạng phàm nhân có giới
đức tu hành chân-chánh theo Giáo- Pháp của Ðức Thế-Tôn, cũng là những bậc đáng
thọ-lãnh vật cúng-dường của tín thí vậy.
b) Một điều nữa, Ðức Phật là bậc
xứng-đáng giảng-dạy Kinh Luật, giáo-hóa chúng-sanh vì Ngài đã diệt tận tất-cả
Phiền-Não chướng-ngại, nên Kinh Luật mà Ngài chỉ-giải, chế-định, toàn là
đúng-đắn, chân-thật, chỉ nhắm vào sự lợi-ích của quần-sanh. Ngài không vì 4
điều Tư-Vị (Agati) [9] mà giảng Kinh, định Luật, nói Pháp độ đời.
[9] 4 Ðiều Tư-Vị là:
a) Chandãgati: Thiên-Vị vì lòng
Thương
b) Dosãgati: Thiên-Vị vì Giận-ghét
c) Mohãgati: Thiên-Vị vì Si Mê
d) Bhayãgati: Thiên-Vị vì Sợ.
b) Dosãgati: Thiên-Vị vì Giận-ghét
c) Mohãgati: Thiên-Vị vì Si Mê
d) Bhayãgati: Thiên-Vị vì Sợ.
Bậc không nơi khuất lấp.
Ðức Phật là đấng trọn-lành, Ngài đã
diệt-tận Phiền-Não nên Thân, Khẩu, Ý của Ngài hoàn toàn trong-sạch thanh-tịnh,
trước mắt người hoặc nơi khuất-lấp, xa tai cách mặt người, Ngài cũng không hề
làm, nói và tưởng điều tội-lỗi, dầu là nhỏ-nhen chút ít.
Không như những hạng thuờng nhân tự
cho mình là "Giáo- Chủ" hoặc "Bồ Tát", là
"Thánh-Nhân", vv..., trước mặt người tỏ ra đạo-mạo nghiêm trang như
là bậc giới hạnh chân-chánh, hiền-từ, đạo-đức, nhưng sau lưng người lại hằng
làm điều tội-lỗi xấu-xa không chút lòng hổ-thẹn.
Do nhờ, những Ân-Ðức cao-quí vừa
giải phía trên, nên Ngài có hiệu là "ARAHAM " (Ứng-Cúng).
Phần kể các Phiền-Não mà đức Phật đã
xa lìa.
1. Kilesa: Phiền-Não có 3 gọi là
Tam-Ðộc.
a) Lobha: Tham
b) Dosa: Sân
c) Moka: Si.
b) Dosa: Sân
c) Moka: Si.
2. Asava: Pháp Trầm-Luân có 3.
a) Kãmãsava: Trầm-Luân trong Ngũ-Dục
b) Ditthãsava: Trầm-Luân trong Kiến-Thức
c) Avjjãsava: Trầm-Luân trong Vô-Minh.
b) Ditthãsava: Trầm-Luân trong Kiến-Thức
c) Avjjãsava: Trầm-Luân trong Vô-Minh.
3. Vipallãsa: Ðiều Lầm-Lạc có 3.
a) Sannã Vipallãsa: Tư-Tưởng Lầm-Lạc
b) Citta Vipallãsa: Tâm Lầm-Lạc
c) Ditthi Vipallãsa: Kiến-Thức Lầm-Lạc.
b) Citta Vipallãsa: Tâm Lầm-Lạc
c) Ditthi Vipallãsa: Kiến-Thức Lầm-Lạc.
4. Anusaya: Pháp Ngủ-Ngầm có 3.
a) Kãmarãgãnusaya: Tình-Dục Ngủ-Ngầm
b) Ditthãnusaya: Kiến-Thức Ngủ-Ngầm (Tà-Kiến)
c) Avijjãnusaya: Vô-Minh Ngủ-Ngầm.
b) Ditthãnusaya: Kiến-Thức Ngủ-Ngầm (Tà-Kiến)
c) Avijjãnusaya: Vô-Minh Ngủ-Ngầm.
5. Agati: Tư-Vị có 4.
a) Chandãgati: Tư-Vị vì Thương
b) Dosãgati: Tư-Vị vì Giận-Ghét
c) Mohãgati: Tư-Vị vì Si-Mê
d) Bhayãgati: Tư-Vị vì Sợ.
b) Dosãgati: Tư-Vị vì Giận-Ghét
c) Mohãgati: Tư-Vị vì Si-Mê
d) Bhayãgati: Tư-Vị vì Sợ.
6. Gantha: Ðiều Ràng-Buộc có 4.
a) Abhijjhãya Gantha: Ràng-Buộc vì
Tâm Xan-Tham.
b) Byjãpãdakãya Gantha: Ràng-buộc vì Tâm Thù Oán, Mong Hại người.
c) Sĩlabbattaparãmãsakãya Gantha: Ràng-Buộc vì Tập Quán, vì Chấp-Lễ Cúng Tế.
d) Idamsaccãbhinivesakãya Gantha: Ràng-Buộc vì Chấp-Ý kiến của Ta là Chân-Chánh, Chắc-Thật, còn của người khác là Sai-Lầm.
b) Byjãpãdakãya Gantha: Ràng-buộc vì Tâm Thù Oán, Mong Hại người.
c) Sĩlabbattaparãmãsakãya Gantha: Ràng-Buộc vì Tập Quán, vì Chấp-Lễ Cúng Tế.
d) Idamsaccãbhinivesakãya Gantha: Ràng-Buộc vì Chấp-Ý kiến của Ta là Chân-Chánh, Chắc-Thật, còn của người khác là Sai-Lầm.
7. Ogha: Vực-Thẳm có 4.
a) Kãmogha: Vực-Thẳm Ngũ-Trần
b) Bhavogha: Vực-Thẳm Tam-Giới
c) Ditthogha: Vực-Thẳm Kiến Thức (Tà-Kiến)
d) Vực-Thẳm Vô-Minh.
b) Bhavogha: Vực-Thẳm Tam-Giới
c) Ditthogha: Vực-Thẳm Kiến Thức (Tà-Kiến)
d) Vực-Thẳm Vô-Minh.
8. Upãdãna: Cố-Chấp có 4.
a) Kãmupãdãna: Cố-Chấp trong Ngũ-Dục
b) Dithupãdãna: Cố-Chấp trong Kiến-Thức (Tà-Kiến)
c) Sĩlabbãttupãdãna: Cố-Chấp trong Tập-Quán, trong Lễ Cúng-Tế (Thần-Thánh)
d) Attavãdupãdãna: Cố-Chấp trong Thân này có Bản-Ngã.
b) Dithupãdãna: Cố-Chấp trong Kiến-Thức (Tà-Kiến)
c) Sĩlabbãttupãdãna: Cố-Chấp trong Tập-Quán, trong Lễ Cúng-Tế (Thần-Thánh)
d) Attavãdupãdãna: Cố-Chấp trong Thân này có Bản-Ngã.
9. Macchariva: Bỏn-Xẻn có 5.
a) Avãsa Macchariya: Bỏn-Xẻn chỗ ở,
b) Kula Macchariya: Bỏn-Xẻn về Gia-Quyến, Môn Ðồ, Ðảng-Phái,
c) Vanna Macchariya: Bỏn-Xẻn về sự khen tặng và sắc tốt,
d) Lãbha Macchriya: Bỏn-Xẻn lợi-lộc,
e) Dhamma Macchirya: Bỏn-Xẻn Giáo-Pháp.
b) Kula Macchariya: Bỏn-Xẻn về Gia-Quyến, Môn Ðồ, Ðảng-Phái,
c) Vanna Macchariya: Bỏn-Xẻn về sự khen tặng và sắc tốt,
d) Lãbha Macchriya: Bỏn-Xẻn lợi-lộc,
e) Dhamma Macchirya: Bỏn-Xẻn Giáo-Pháp.
10. Anusaya: Pháp Ngủ-Ngầm trong Tâm
có 7.
a) Kãmarãgãnusaya: Tình-Dục Ngủ-Ngầm
b) Bhavarãgãmusaya: Mê-Thích Tam-Giới Ngủ-Ngầm
c) Patighãnusaya: Bất-Bình Ngủ-Ngầm
d) Mananusaya: Cống-Cao Ngã-Mạn Ngủ-Ngầm
e) Ditthãmusaya: Kiến-Thức Ngủ-Ngầm (Tà-Kiến)
f) Vicikicchãmusaya: Hoài-Nghi Ngủ-Ngầm
g) Avikicchãnusaya: Vô-Minh Ngủ-Ngầm.
b) Bhavarãgãmusaya: Mê-Thích Tam-Giới Ngủ-Ngầm
c) Patighãnusaya: Bất-Bình Ngủ-Ngầm
d) Mananusaya: Cống-Cao Ngã-Mạn Ngủ-Ngầm
e) Ditthãmusaya: Kiến-Thức Ngủ-Ngầm (Tà-Kiến)
f) Vicikicchãmusaya: Hoài-Nghi Ngủ-Ngầm
g) Avikicchãnusaya: Vô-Minh Ngủ-Ngầm.
11. Lokadhamma: Pháp Thế-Gian có 8.
a) Lãbho: Ðược Lợi
b) Alãbho: Thất Lợi
c) Vaso: Ðược Danh
d) Ayaso: Thất Danh
e) Nindã: Bị Chê
f) Pasamsã: Ðược Khen
g) Sukho: Ðược Vui
h) Dukkho: Bị Khổ.
b) Alãbho: Thất Lợi
c) Vaso: Ðược Danh
d) Ayaso: Thất Danh
e) Nindã: Bị Chê
f) Pasamsã: Ðược Khen
g) Sukho: Ðược Vui
h) Dukkho: Bị Khổ.
12. Mandila: Pháp Nhơ-Bẩn có 9.
a) Kodha: Hờn-Giận
b) Makkha: Bạc-ơn
c) Issã: Ganh-Tị
d) Macchariya: Bỏn-Xẻn
e) Mãyã: Làm Bộ, Giả-Dối
f) Sãtheyya: Khoe-Khoang
g) Musã: Nói Láo
h) Pãpicchã: Tham Muốn những điều Xấu-Xa Tội-Lỗi
i) Micchãditthi: Tà-Kiến.
b) Makkha: Bạc-ơn
c) Issã: Ganh-Tị
d) Macchariya: Bỏn-Xẻn
e) Mãyã: Làm Bộ, Giả-Dối
f) Sãtheyya: Khoe-Khoang
g) Musã: Nói Láo
h) Pãpicchã: Tham Muốn những điều Xấu-Xa Tội-Lỗi
i) Micchãditthi: Tà-Kiến.
13. Micchatta Dhamma: Pháp Tà-Vạy có
10.
a) Micchã Ditthi: Tà-Kiến
b) Micchã Sankappo: Tà Tư-Duy
c) Micchã Vãcã: Tà Ngữ
d) Micchã Kammanto: Tà Nghiệp
e) Micchã Ãjivo: Tà Mạng
f) Micchã Vãyãmo: Tà Tinh-Tấn
g) Micchã Sati: Tà Niệm
h) Micchã Samãdhi: Tà Ðịnh
i) Micchã Nãnam: Tà Huệ
j) Micchã Vimutti: Tà Giải-Thoát.
b) Micchã Sankappo: Tà Tư-Duy
c) Micchã Vãcã: Tà Ngữ
d) Micchã Kammanto: Tà Nghiệp
e) Micchã Ãjivo: Tà Mạng
f) Micchã Vãyãmo: Tà Tinh-Tấn
g) Micchã Sati: Tà Niệm
h) Micchã Samãdhi: Tà Ðịnh
i) Micchã Nãnam: Tà Huệ
j) Micchã Vimutti: Tà Giải-Thoát.
14. Akusalakammapatha: Nghiệp-Ác có
10 gọi là "Thập-Ác":
a) Pãnãtipato: Sát-Sanh
b) Adinnãdãnam: Trộm-Cắp
c) Kãmesu Micchãcãro: Tà-Dâm
d) Musãvãdo: Nói Dối
e) Pisunãvãcã: Nói Ðâm-Thọc
f) Pharusavãcã: Nói Lời Ðộc Ác, Chưởi-Rủa
g) Samphapalãpo: Nói Lời Vô-Ích, Viễn-Vông
h) Abhijjhã: Tham-Lam
i) Byãpãda: Thù-Oán mong hại Người
j) Micchãditthi: Tà-Kiến.
b) Adinnãdãnam: Trộm-Cắp
c) Kãmesu Micchãcãro: Tà-Dâm
d) Musãvãdo: Nói Dối
e) Pisunãvãcã: Nói Ðâm-Thọc
f) Pharusavãcã: Nói Lời Ðộc Ác, Chưởi-Rủa
g) Samphapalãpo: Nói Lời Vô-Ích, Viễn-Vông
h) Abhijjhã: Tham-Lam
i) Byãpãda: Thù-Oán mong hại Người
j) Micchãditthi: Tà-Kiến.
15. Samyojana: Pháp Thẳng-Thúc có
10:
a) Sakkãyaditthi: Thân Kiến
b) Vicikicchã: Hoài Nghi (về Nhân và Quả)
c) Silabbataparãmãsa: Chấp theo Lễ Cúng-Tế (Thần-Thánh), Chấp theo Tập Quán (Giới Cấm Thủ)
d) Kãmacchanda: Vui Thích Tình-Dục
e) Byãpãda: Thù-Oán, mong Hại Người
f) Rupãrãga: Mê-Thích trong Cảnh Sắc
g) Aruparãga: Vui-Thích Cảnh Vô-Sắc
h) Mãna: Ngã-Mạn, Cống-Cao
i) Uddhacca: Phóng-Tâm
j) Avijjã: Vô-Minh.
b) Vicikicchã: Hoài Nghi (về Nhân và Quả)
c) Silabbataparãmãsa: Chấp theo Lễ Cúng-Tế (Thần-Thánh), Chấp theo Tập Quán (Giới Cấm Thủ)
d) Kãmacchanda: Vui Thích Tình-Dục
e) Byãpãda: Thù-Oán, mong Hại Người
f) Rupãrãga: Mê-Thích trong Cảnh Sắc
g) Aruparãga: Vui-Thích Cảnh Vô-Sắc
h) Mãna: Ngã-Mạn, Cống-Cao
i) Uddhacca: Phóng-Tâm
j) Avijjã: Vô-Minh.
16. Kilesa: Phiền-Não có 10:
a) Lobha: Tham
b) Dosa: Sân
c) Moha: Si
d) Manã: Ngã-Mạn, Cống-Cao
e) Ditthi: Kiến-Thức (Tà-Kiến)
f) Vicikicchã: Hoài-Nghi (về Nhân Quả, ...)
g) Thina: Tâm Dụ-Dự, Uể-Oải, Buồn-Ngủ
h) Uddhacca: Phóng-Tâm
i) Ahirika: Không Hổ-Thẹn Tội-Lỗi
j) Anottappa: Không Ghê-Sợ Tội-Lỗi.
b) Dosa: Sân
c) Moha: Si
d) Manã: Ngã-Mạn, Cống-Cao
e) Ditthi: Kiến-Thức (Tà-Kiến)
f) Vicikicchã: Hoài-Nghi (về Nhân Quả, ...)
g) Thina: Tâm Dụ-Dự, Uể-Oải, Buồn-Ngủ
h) Uddhacca: Phóng-Tâm
i) Ahirika: Không Hổ-Thẹn Tội-Lỗi
j) Anottappa: Không Ghê-Sợ Tội-Lỗi.
17. Akusalacittuppãda: Tâm-Ác có 12:
a) 8 Tâm Xan-Tham: Mobhamũla
b) 2 Tâm Sân-Hận: Dosamũla
c) 2 Tâm Si-Mê: Mohamũla
b) 2 Tâm Sân-Hận: Dosamũla
c) 2 Tâm Si-Mê: Mohamũla
(Xin xem giải rộng 12 Ác Tâm trong
quyển "Vi Diệu Pháp" của Ðại-Ðức Hộ-Tông).
18. Tanhã (Tâm Ái-Dục) có 108.
Nếu kể tóm-tắt thì Tâm Ái-Dục có 3
là:
a) Kãmatanhã: Ái-Dục trong cõi
Dục-Giới
b) Bhavatanhã: Ái-Dục trong sự muốn sanh về cõi Sắc
c) Vibhavatanhã: Ái-Dục muốn sanh về cõi Vô-Sắc-Giới
b) Bhavatanhã: Ái-Dục trong sự muốn sanh về cõi Sắc
c) Vibhavatanhã: Ái-Dục muốn sanh về cõi Vô-Sắc-Giới
Lấy 3 Tâm Ái-Dục ấy nhơn cho 6 Căn
(Nhãn, Nhĩ, Tĩ, Thiệt, Thân, Ý) thành 18 nội Tâm Ái-Dục.
Lấy 3 Tâm Ái-Dục ấy nhơn cho 6 Trần
(Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) thành 18 Ngoại Tâm Ái-Dục.
Cộng lại thành (18 + 18) = 36 Tâm
Ái-Dục.
36 Tâm Ái-Dục Quá-Khứ + 36 Tâm
Ái-Dục Vị-Lai + 36 Tâm Ái-Dục Hiện-Tại = 108 Tâm Ái-Dục
19. Kilesa: Phiền-Não có 1500:
Nếu kể tóm-tắt thì Phiền-Não có 10
(xem phía trước).
Nếu kể 1500 Phiền-Não thì tính theo
phương-pháp sau đây:
Lấy 1 trong 81 Tâm Phàm
(Lokiyacitta) + 52 Tánh (Citasika) + 18 Thành-Lập-Sắc (Nipphanna Rũpa) [*] + 1
Hư-Không (ãkãsa) + 1 Sanh (Jãti) + 1 Già (Jarã) + 1 Tiềm-Thức (Bhavanga) = 75
Phiền-Não
Chia ra 75 Phiền-Não bên Trong + 75
Phiền-Não bên Ngoài , cộng chung thành 150 Phiền-Não.
Ðem nhơn cho 10 Phiền-Não (Kilesa)
đã kể phía trước (150 x 10 ) thành 1500 Phiền-Não.
[*] Nipphanna Rũpa tạm dịch là
"Thành-Lập-Sắc" là Sắc đã tạo lập phát-sanh lên rồi. Có 18:
1. Pathavĩ: Ðất
2. Ãpo: Nước
3. Tejo: Lửa
4. Vãyo: Gió
5. Cakkhu: Nhãn
6. Sota: Nhĩ
7. Ghãna: Tĩ
8. Jĩvahã: Thiệt
9. Kãya: Thân
10. Rũpa: Sắc (Cảnh)
11. Sadda: Thinh
12. Gandha: Hương
13. Rasa: Vị
14. Photthabba: Xúc
15. Itthindriya: Nữ-Căn
16. Purisindriya: Nam-Căn
17. Hadaya Vatthu: Tâm Chất (Căn của Tim)
18. Jivitindriya: Mạng-Căn
2. Ãpo: Nước
3. Tejo: Lửa
4. Vãyo: Gió
5. Cakkhu: Nhãn
6. Sota: Nhĩ
7. Ghãna: Tĩ
8. Jĩvahã: Thiệt
9. Kãya: Thân
10. Rũpa: Sắc (Cảnh)
11. Sadda: Thinh
12. Gandha: Hương
13. Rasa: Vị
14. Photthabba: Xúc
15. Itthindriya: Nữ-Căn
16. Purisindriya: Nam-Căn
17. Hadaya Vatthu: Tâm Chất (Căn của Tim)
18. Jivitindriya: Mạng-Căn
-ooOoo-
2. Sammãsambuddho (Chánh-Biến-Tri)
Tại sao Ðức Phật có hiệu là
Sammãsambuddho (Chánh-Biến-Tri)?
Bởi Ngài đã thành bậc Chánh-Ðẳng
Chánh-Giác là bậc hoàn-toàn Giác-Ngộ (Buddho), thông-suốt các Pháp một cách
chân-chánh (Sammã) tự Ngài tỏ-ngộ lấy không thầy giáo-hoá (Sãnam).
Ðức Phật tự mình phát-giác,
hiểu-biết tường-tận 4 Chân-Lý Vi-Diệu quí-báu là Tứ-Diệu-Ðế (Caturãriyasacca).
Bốn Chân-Lý ấy là:
Dukkha Ariyasaccam: Khổ-Ðế
Dukkha Samudaya Ariyasaccam: Tập-Ðế
Dukkha Nirodha Ariyasaccam: Diệt-Ðế
Dukkha Nirodha Gãminipatipadã Ariyasaccam: Ðạo-Ðế
Dukkha Samudaya Ariyasaccam: Tập-Ðế
Dukkha Nirodha Ariyasaccam: Diệt-Ðế
Dukkha Nirodha Gãminipatipadã Ariyasaccam: Ðạo-Ðế
Ariyasacca - Diệu-Ðế - có nghĩa là:
- Pháp Chắc-Thật của bậc Thánh-nhân
(Ariyasacca: Chắc-Thật).
- Pháp Chắc-Thật dắt-dẫn cho xa lìa
kẻ nghịch. Bậc nào đã đắc Pháp Tứ-Ðế rồi thì các kẻ - nghịch là Phiền-Não không
còn tồn-tại trong Thân-Tâm nữa.
- Pháp Chắc-Thật làm cho Quả Thánh
phát-sanh tròn đủ, vì bậc nào đã đắc Pháp Tứ-Ðế rồi thì Trí-Tuệ phát khởi thấy
rõ: "Ðây là Khổ, đây là Nguyên-Nhân phát-sanh sự Khổ, đây là nơi Diệt-Khổ,
đây là con đường đi đến nơi Diệt-Khổ", có thể Ðắc-Ðạo quả Thánh-Nhân
dễ-dàng.
- Pháp Chắc-Thật đáng tôn-quí.
Tôn-quí vì tính cách hiển-nhiên, chân-thật của Tứ-Ðế. Khổ, thật có trên thế gian
này, nguyên-nhân phát-sanh sự Khổ, nguyên-nhân ấy có thật; nơi Diệt-Khổ, nơi ấy
có thật; con đường đi đến nơi Diệt-Khổ, con đường ấy có thật.
Khổ-Ðế.
Khổ-Ðế là những điều thống-khổ
hiển-nhiên mà chúng-sanh ở đời không ai tránh khỏi được. Có 12 sự Khổ:
Jãti Dukkham: Khổ Sanh
Jãrã Dukkham: Khổ Già
Byãdhi Dukkham: Khổ Ðau
Marana Dukkham: Khổ Chết
Soka Dukkham: Khổ vì Buồn-Rầu, Thương-Tiếc
Parideva Dukkham: Khổ vì Khóc Than, Kể-Lể
Dukkha Dukkham: Khổ vì Sự-Khổ
Domanassa Dukkham: Khổ vì Phiền-Muộn
Upayasã Dukkham: Khổ vì Khó-Chịu, Bực-Tức
Appiyehi Sampayoga Dukkham: Khổ vì Không Ưa mà phải Gần
Piyehi Vippayoga Dukkham: Khổ vì Thương-Mến mà phải Xa Lìa
Yampiccham Na Labhati Tampi Dukkham: Khổ vì Muốn mà Không Ðược như Ý (thất-vọng).
Jãrã Dukkham: Khổ Già
Byãdhi Dukkham: Khổ Ðau
Marana Dukkham: Khổ Chết
Soka Dukkham: Khổ vì Buồn-Rầu, Thương-Tiếc
Parideva Dukkham: Khổ vì Khóc Than, Kể-Lể
Dukkha Dukkham: Khổ vì Sự-Khổ
Domanassa Dukkham: Khổ vì Phiền-Muộn
Upayasã Dukkham: Khổ vì Khó-Chịu, Bực-Tức
Appiyehi Sampayoga Dukkham: Khổ vì Không Ưa mà phải Gần
Piyehi Vippayoga Dukkham: Khổ vì Thương-Mến mà phải Xa Lìa
Yampiccham Na Labhati Tampi Dukkham: Khổ vì Muốn mà Không Ðược như Ý (thất-vọng).
Chữ Khổ (Dukkha) nếu giải tóm-tắt
thì chỉ có cái khổ về Ngũ-Uẩn. Vì cố-chấp rằng trong Ngũ-Uẩn này có ta, cho sắc
thân này là Ta, là của Ta... và chấp Thọ-Uẩn, Tưởng-Uẩn, Hành-Uẩn, Thức-Uẩn
cũng như thế ấy nên các sự Khổ-Não mới phát-sanh lên được. Một lẽ nữa, Ngũ-Uẩn
là nguồn-cội, là nơi chất-chứa các sự Thống-Khổ, vì có thân Ngũ-Uẩn này mới có
Khổ-Sanh, Khổ-Già, Khổ-Ðau, Khổ-Chết ...
Tập-Ðế.
Tập-Ðế là nguyên-nhân sanh ra Khổ là
lòng Ái-Dục (Tanhã). Lòng Ái-Dục có mãnh-lực ngấm-ngầm trong Tâm của tất-cả
phàm-nhân, khiến cho chúng-sanh ước-ao tìm kiếm và cố giữ lấy những vật vừa
lòng đẹp-ý, say-mê, quyến-luyến theo Ngũ-Trần không ngừng-nghỉ. Chính lòng
Ái-Dục dắt-dẫn chúng-sanh Trầm-Luân từ khiếp này sang kiếp khác trong vòng Sanh
Tử Vô-Cùng Vô-Tận.
Lòng Ái-Dục có 3:
1) Kãma Tanhã: Tâm Ham-Muốn, Sa-Mê
theo Ngũ-Trần hoặc Uớc Muốn được sanh làm người hoặc làm trời trong 6 cõi
Dục-Giới
2) Bhava Tanhã: Tâm Ham-Muốn sanh về cõi trời Sắc-Giới
3) Vibhava Tanhã: Tâm Ham-Muốn sanh về cõi Vô-Sắc-Giới.
2) Bhava Tanhã: Tâm Ham-Muốn sanh về cõi trời Sắc-Giới
3) Vibhava Tanhã: Tâm Ham-Muốn sanh về cõi Vô-Sắc-Giới.
Nếu kể rộng, lòng Ái-Dục có 108 như đã
có giải phía trước.
Ái-Dục là nguyên-nhân phát-sanh ra
các sự Thống-Khổ, nếu Ái-Dục diệt thì các sự Khổ-Não cũng diệt theo.
Diệt-Ðế.
Diệt-Ðế là nơi diệt-trừ hoàn-toàn
các sự Khổ tức là Niết-Bàn. Niết-Bàn, theo danh từ Pãli gọi là Nibbãna,
Sanscrit gọi là Nirvãna. Ni có nghĩa: Ra Khỏi hoặc Không Còn. Vãnã có nghĩa:
Phiền-Não hoặc Tam-Giới.
Niết-Bàn có 32 nghĩa, nhưng nếu giải
tóm-tắt, đại-khái có 2 nghĩa sau đây:
* Nếu nói trạng-thái của Tâm thì
Niết-Bàn là trạng-thái Tâm đã đoạn-tuyệt, diệt-trừ hẳn Ái-Dục. Lòng Ái-Dục phát
sanh lên do sự tiếp-xúc của Lục-Căn (Nhãn, Nhĩ, Tỉ, Thiệt, Thân, Ý) với
Lục-Trần (Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp). Nếu thu-thúc Lục-Căn cho
thanh-tịnh, không cho duyên theo, quyến-luyến theo Lục-Trần thì lòng Ái-Dục
không còn phát-sanh lên được. Lòng Ái-Dục đã diệt-trừ thì các sự Khổ-Não cũng
diệt theo không dư-sót.
* Nếu nói là nơi hoặc cõi, thì
Niết-Bàn là nơi tịch tịnh, không có Sanh, Già, Ðau, Chết, là cõi ngoài Tam-Giới
(Xuất Thế-Gian).
Ðức Phật và các bậc A-La-Hán đã đắc
2 Niết-Bàn:
Phiền-Não Niết-Bàn (Kilesa Nibbãnam)
Phiền-Não Niết-Bàn (Kilesa Nibbãnam)
hoặc Hữu-Dư Niết-Bàn (Saupãdisesa Nibbãnam) là trạng-thái Tâm các bậc
Thánh-Nhân ngay trong kiếp chót, đã diệt tận Ái-Dục Phiền-Não, đã được giác-ngộ
và giải-thoát, xong vẫn còn Thân, Ngũ-Uẩn.
Ðức Phật đã đắc Phiền-Não Niết-Bàn
khi còn ngự dưới cội Bồ-Ðề, toàn thắng bọn Ma-Vương, dứt-tuyệt Tham, Sân, Si,
Ngã-Chấp, Tà-Kiến cùng 1500 Phiền-Não và 108 Ái-Dục xa lìa Tâm Ngài như các
giọt nước lìa khỏi lá sen.
Khi đã đắc Hữu-Dư Niết-Bàn, Ngài có
tuyên-ngôn như vầy:
"Anekajãti samsãram
sandhãvissam anibbisam, gahakãram, gavesanto dukkhã jãti punappunam, gahakãraka
ditthosi puna geham na kãhasi, Sabbe te phãsukã bhaggã gahakũtam visanhkhatam,
Visankhãragatam cittam tanhãnam khayamajjhagãti".
Nghĩa: " Khi Như-Lai đang tìm
người thợ (tức Ái-Dục) là người cất cái nhà tức là thân tứ-đại của Như-Lai mà
chưa gặp được, Như-Lai hằng bị luân-hồi trải qua vô lượng-kiếp, sự sanh ấy hằng
đem những điều Thống-Khổ đến Như-Lai không ngừng-nghỉ".
Này người thợ làm nhà kia? Như-Lai
đã tìm thấy ngươi rồi! Từ đây, ngươi không còn cất nhà là thân tứ-đại của
Như-Lai được nữa. Sườn nhà là các Phiền-Não của ngươi, Như-Lai đã bẻ gãy rồi;
nóc nhà là Vô-Minh mà ngươi đã tạo đó, Như-Lai cũng đã phá tan rồi. Hiện nay,
Tâm Như-Lai đã đắc Niết-Bàn, lìa khỏi Sắc-Tướng, Như-Lai đã liễu-chứng quả
A-La-Hán là Pháp tiêu-diệt tất-cả Ái-Dục rồi!"
Ngũ-Uẩn Niết-Bàn (Khandha Nibbãnam)
Ngũ-Uẩn Niết-Bàn (Khandha Nibbãnam)
hoặc Vô-Dư Niết-Bàn (Anupãdisesa Nibbãnam) là khi tuổi thọ đã đến lúc cùng tận,
các bậc Thánh-Nhân ấy rồi khỏi thân Ngũ-Uẩn nhập vào cõi tịch-tịnh không còn
sanh tử luân-hồi nữa.
Ðức Phật đem Giáo-lý cao-thượng ra
giảng-giải tế-độ chúng-sanh trọn 45 hạ đến khi phận-sự đã viên-dung, Ngài đến
gần kinh-thành Kusinara, an ngọa dưới hai cây long-thọ, nhập-định rồi
viên-tịch. Lúc ấy Ngài tịch-diệt cả Ngũ-Uẩn là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, như
thế gọi là Ngũ-Uẩn Niết-Bàn.
Có chỗ lại thêm Niết-Bàn thứ ba là
Xá-lợi Niết-Bàn (Dhãtu Nibbãnam). Hiện nay, Xá-lợi Ðức Phật ở rải-rác khắp nơi
cho Chư-Thiên và nhân-loại chiêm-bái, khi Phật-Giáo tròn đủ 5000 năm, Xá-lợi
của Ngài tự nhiên sẽ bay về qui-tụ thành một khối tại Bồ-Ðề Ðạo-Tràng (Buddha
Gaya ở Trung Ấn-Ðộ), hóa ra một vị Phật-Tổ như lúc Ðức Thế-Tôn còn tại thế, ngự
trên bồ-đoàn thuyết-Pháp trọn 7 ngày đêm. Khi ấy các vị Phạm-Thiên và Chư-Thiên
từ trên các cõi trời, tay cầm tràng hoa bay xuống lễ-bái cúng-dường và nghe
Pháp, được đắc đạo-quả từ Tu-Ðà-Hườn đến A-La-Hán hằng hà vô số kể.
Ðến đủ 7 ngày, tự nhiên trong
kim-thân lửa phát cháy lên thiêu-hoại Xá-lợi, kể từ ngày ấy thì Giáo-Pháp của
Ngài hoàn-toàn tiêu-diệt. Như thế gọi là Xá-lợi Niết-Bàn.
Ðạo-Ðế
Ðạo-Ðế là con đường đi đến nơi Diệt
Khổ. Con đường ấy là Bát-Chánh-Ðạo (Ariyatthangika Magga) gồm có 8 chi:
Sammã Ditthi: Chánh Kiến là thấy
biết chân-chánh
Sammã Sankappa: Chánh Tư-Duy là suy-nghĩ chân-chánh
Sammã Vãcã: Chánh Ngữ là lời nói chân-chánh
Sammã Kammanta: Chánh Nghiệp là sự làm chân-chánh
Sammã Ãjiva: Chánh Mạng là sự nuôi mạng chân-chánh
Sammã Vãyama: Chánh Tinh-Tấn là sự cố-gắng chân-chánh
Sammã Sati: Chánh Niệm là sự ghi nhớ (Niệm) chân-chánh
Sammã Samãdhi: Chánh Ðịnh là định Tâm chân-chánh.
Sammã Sankappa: Chánh Tư-Duy là suy-nghĩ chân-chánh
Sammã Vãcã: Chánh Ngữ là lời nói chân-chánh
Sammã Kammanta: Chánh Nghiệp là sự làm chân-chánh
Sammã Ãjiva: Chánh Mạng là sự nuôi mạng chân-chánh
Sammã Vãyama: Chánh Tinh-Tấn là sự cố-gắng chân-chánh
Sammã Sati: Chánh Niệm là sự ghi nhớ (Niệm) chân-chánh
Sammã Samãdhi: Chánh Ðịnh là định Tâm chân-chánh.
Bát-Chánh-Ðạo chia ra 3 phần:
Chánh-Ngữ, Chánh-Nghiệp, Chánh-Mạng
thuộc về phần Giới.
Chánh Tinh-Tấn, Chánh-Niệm, Chánh-Ðịnh thuộc về phần Ðịnh.
Chánh-Kiến, Chánh Tư-Duy thuộc về phần Huệ.
Chánh Tinh-Tấn, Chánh-Niệm, Chánh-Ðịnh thuộc về phần Ðịnh.
Chánh-Kiến, Chánh Tư-Duy thuộc về phần Huệ.
Cho nên người hành theo
Bát-Chánh-Ðạo cũng gọi là người tu Giới, Ðịnh, Huệ là nền tảng của Phật-Giáo
vậy.
Bát-Chánh-Ðạo là Trung-Ðạo (Majjhimã
Paitpadã) nghĩa là con đường giữa không thiên về hai cực-đoan không
"Khổ-Hạnh" và không "Lợi-Dưỡng":
Kãmasakhallĩkãnuyoga (Lợi-Dưỡng) Say
Mê theo Ngũ-Trần,
Atthakilamathãnuyoga (Khổ-Hạnh) Ép xác-thân.
Atthakilamathãnuyoga (Khổ-Hạnh) Ép xác-thân.
Con đường ấy có năng lực hằng làm
cho phát sanh Pháp-Nhãn (Cakkhu) và Trí-Tuệ (Pãna), khiến cho Tâm trở nên
thanh-tịnh sáng-suốt mà cứu-cánh là sự Giác-Ngộ và Niết-Bàn.
Tứ-Diệu-Ðế là những Pháp thực-tế,
hiển-nhiên mà mọi người đều có thể tự mình xem-xét, thực-nghiệm lấy.
Tứ-Diệu-Ðế là Chân-lý mà Chân-Lý thì
không bao giờ hư-hoại hay chịu ảnh-hưởng của thời-gian. Bốn Chân-Lý ấy đã có
trong quá-khứ, đang có trong hiện tại và sẽ tồn-tại trong thời vị-lai. Nhưng
chỉ có Trí-Tuệ siêu phàm của Ðức Phật mới phát-giác được mà thôi và từ khi Ngài
chuyển Pháp-Luân nơi vườn Lộc-Giả tại Isipatãna, 4 Chân-Lý Vi-Diệu ấy mới được
phổ-cập đến tất-cả Chư-Thiên và Nhân-Loại.
Dựa theo 4 Chân-Lý ấy, dưới cội
Bồ-Ðề, Ðức Phật đã tự mình tỏ-ngộ tường-tận những Pháp xác thật sau đây:
- Lục-Căn (Nhãn, Nhĩ, Tỉ, Thiệt,
Thân, Ý) là Khổ-Ðế.
- Tâm Ái-Dục phát khởi lên do Lục-Căn là Tập-Ðế.
-Trạng-thái Tâm Ái-Dục bị diệt-trừ không phát-sanh lên được khi Lục-Căn tiếp-xúc với Lục-Trần (Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) là Diệt-Ðế.
- Phương-Pháp chân-chánh làm cho phát-sanh Trí-Tuệ để diệt Tâm Ái-Dục là Ðạo-Ðế.
- Tâm Ái-Dục phát khởi lên do Lục-Căn là Tập-Ðế.
-Trạng-thái Tâm Ái-Dục bị diệt-trừ không phát-sanh lên được khi Lục-Căn tiếp-xúc với Lục-Trần (Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) là Diệt-Ðế.
- Phương-Pháp chân-chánh làm cho phát-sanh Trí-Tuệ để diệt Tâm Ái-Dục là Ðạo-Ðế.
Những Pháp ấy kể tiếp sau đây có thể
giải-thích bằng cách tương-tự như trên:
- Lục-Trần bắt đầu từ Sắc-Trần ...
- Lục-Thức bắt đầu từ Nhãn-Thức ...
- Lục-Xúc bắt đầu từ Nhãn-Xúc ...
- Lục-Thọ bắt đầu từ Nhãn-Thọ ...
- Lục-Tưởng bắt đầu từ Nhãn-Tưởng ...
- Sáu Tác-Ý bắt đầu từ Tác-Ý về Sắc-Trần ...
- Sáu Ái-Dục bắt đầu từ Sắc-Ái ...
- Sáu Tâm "Tầm" bắt đầu từ Ý Tâm "Tầm" về Sắc-Trần ...
- Sáu Tâm "Sắc" bắt đầu từ Tâm "Sắc" về Sắc-Trần ...
- Ngũ-Uẩn bắt đầu từ Sắc-Uẩn ...
- 10 đề Kasina (dùng nguyên-chất hoặc màu sắc làm thành vòng tròn để làm đề-mục tham-thiền);
- 10 đề Niệm Niệm;
- 10 đề Tử-Thi;
- 32 Thể của Thân bắt đầu từ Tóc, Lông ...
- 12 Căn (12 ãyatana: 6 Căn và 6 Trần);
- 18 Bản-Chất (12 Dhãtu: Chất Nhãn, ... Chất Sắc (Cảnh), ... Chất Nhãn-Thức vv...);
- 9 Cảnh-Giới Tái-Sanh (Bhava)
- 4 Bậc Thiền bắt đầu từ Sơ-Thiền
- Tứ-Vô-Lượng-Tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả)
- 4 Ðề Vô-Sắc (Không Vô-Biến-Thiên, Thức-Vô-Biến-Thiên, Vô-Hữu Sở-Thiên, Phi-Phi Tưởng Thiên).
- Lục-Thức bắt đầu từ Nhãn-Thức ...
- Lục-Xúc bắt đầu từ Nhãn-Xúc ...
- Lục-Thọ bắt đầu từ Nhãn-Thọ ...
- Lục-Tưởng bắt đầu từ Nhãn-Tưởng ...
- Sáu Tác-Ý bắt đầu từ Tác-Ý về Sắc-Trần ...
- Sáu Ái-Dục bắt đầu từ Sắc-Ái ...
- Sáu Tâm "Tầm" bắt đầu từ Ý Tâm "Tầm" về Sắc-Trần ...
- Sáu Tâm "Sắc" bắt đầu từ Tâm "Sắc" về Sắc-Trần ...
- Ngũ-Uẩn bắt đầu từ Sắc-Uẩn ...
- 10 đề Kasina (dùng nguyên-chất hoặc màu sắc làm thành vòng tròn để làm đề-mục tham-thiền);
- 10 đề Niệm Niệm;
- 10 đề Tử-Thi;
- 32 Thể của Thân bắt đầu từ Tóc, Lông ...
- 12 Căn (12 ãyatana: 6 Căn và 6 Trần);
- 18 Bản-Chất (12 Dhãtu: Chất Nhãn, ... Chất Sắc (Cảnh), ... Chất Nhãn-Thức vv...);
- 9 Cảnh-Giới Tái-Sanh (Bhava)
- 4 Bậc Thiền bắt đầu từ Sơ-Thiền
- Tứ-Vô-Lượng-Tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả)
- 4 Ðề Vô-Sắc (Không Vô-Biến-Thiên, Thức-Vô-Biến-Thiên, Vô-Hữu Sở-Thiên, Phi-Phi Tưởng Thiên).
Thập-Nhị-Nhân-Duyên, nếu kể xuôi thì
bắt đầu từ Vô-Minh và kể ngược bắt đầu từ Lão, Tử.
Theo phương-Pháp trên nếu giải-thích
riêng về một nhân-duyên thì:
- Lão, Tử là Khổ-Ðế;
- Sanh là Tập-Ðế;
- Sự Diệt-Tắt của Sanh, Lão, Tử, là Diệt-Ðế;
- Phương-pháp chân-chánh làm cho phát-sanh Trí-Tuệ để Diệt-trừ Sanh, Lão, Tử là Ðạo-Ðế.
- Sanh là Tập-Ðế;
- Sự Diệt-Tắt của Sanh, Lão, Tử, là Diệt-Ðế;
- Phương-pháp chân-chánh làm cho phát-sanh Trí-Tuệ để Diệt-trừ Sanh, Lão, Tử là Ðạo-Ðế.
Tất cả những Pháp ấy, luôn cả những
Pháp Xuất Thế-Gian, Ðức Phật đã tự mình tìm thấy, hiểu biết tường-tận tinh-vi,
không phải do nơi trí tưởng-tuợng mà do nơi Ngài phân-tích rõ-ràng, nhờ Trí-Tuệ
hoàn-toàn sáng-suốt không hạn-định, không chướng-ngại, tự Ngài ngộ lấy không ai
chỉ dạy cho.
Nói riêng về Tứ-Diệu-Ðế, Ðức Phật đã
tri-tỏ đứng-đắn chính-xác những Pháp đáng tri-tỏ là Khổ-Ðế có 12 điều như đã
giải phía trước, nên Ngài có hiệu là Toàn-Tri Khổ-Ðế (Parinneyye Dhamme
Sammãsambuddho).
Ngài đã tri-tỏ những Pháp đáng diệt-trừ
là Tập-Ðế tức là Tâm Ái-Dục có 3 hoặc 108 nên Ngài có hiệu là Toàn-Tri Ái-Dục
(Pahãtadde Dhamme Sammãsambuddho).
Ngài tri-tỏ những Pháp đáng làm cho
rõ-rệt là Diệt-Ðế mà những bật Trí-Tuệ đang cố-gắng hành theo để đạt 4 Ðạo, 4
Quả và Niết-Bàn nên Ngài có hiệu là Toàn-Tri Diệt-Ðế (Sacchikãtabbe Dhamme
Sammãsambuddho).
Ngài tri-tỏ những Pháp đáng nương
theo là Ðạo-Ðế tức Bát-Chánh-Ðạo có năng-lực đem đến nơi giải-thoát là
Niết-Bàn, nên Ngài có hiệu là Toàn-Trí Ðạo-Ðế (Bhavetabhe Dhamme
Sammãsambuddho).
Do nhờ những Ân-Ðức cao-quí vừa giải
phía trên nên Ðức Phật có hiệu là Sammãsambuddho (Chánh-Biến-Tri).
-ooOoo-