Chuyện Tiền thân Bahiya (Jàtaka 420) kể lại
rằng: ” Thuở xưa, khi vua Bramadatta trị vì ở Ba- la-nại, Bồ tát là một vị đại
thần của triều đình. Có một nữ nhân thôn quê thân thể béo mập, ăn mặc lôi thôi,
làm công ăn lương, đang đi ngang qua gần sân của nhà vua, cảm thấy thân bị bức
bách ngồi xuống lấy áo đắp che thân, giải tỏa sự bức bách của thân và nhanh nhẹn
đứng dậy”.
Câu chuyện bắt đầu rất bình thường, nói về
một hoạt động cũng … bình thường của con người ( nhưng lại ít được đề cập trong
truyện, phim…) là vấn đề đi vệ sinh. Một cô gái thuộc tầng lớp nghèo đi ngang
qua cung điện nhà vua và muốn… đi vệ sinh. Cô ngồi xuống, lấy áo che thân cẩn
thận, đi xong và đứng dậy nhanh nhẹn. Câu chuyện chỉ có thế, rất…rất nhạt nhẽo.
Thế nhưng, có điều gì cần suy ngẫm ?
Con người ta thường có hai cách xử sự. Một
cách công khai, hình thức, mang tính giao tiếp. Người Anh gọi đó là cách xử sự
formal. Một cách khác, mang tính riêng tư, cá nhân và không…phổ biến cho người
khác. Tiếng Anh gọi đó là cách xử sự informal. Điều này thấy rõ trong các hoạt
động ngoại giao. Nhà ngoại giao có thể bắt tay, trò chuyện vui vẻ, nhưng trong
chỗ riêng tư có thể chửi bới, hạ nhục nhau. Nhà ngoai giao có thể bên ngoài thì
khen ngợi nhưng trong bụng thì… chửi thề. Trong những ngày gần đây, Wikileaks
công bố các trang tài liệu mật, phổ biến cho bàn dân thiên hạ cái thể hiện đằng
sau các nghi thức ngoại giao đẹp đẽ. Tình trạng phải có các cư xử formal và informal làm cho con người ta
phải sống một cuộc sống hai mặt. Mọi người cũng quen với tình trạng đó và cho
đó là bình thường, lẽ đương nhiên phải là như vậy.
Một loại suy nghĩ khác thể hiện tình trạng
hai mặt. Một người khách đến nhà chơi được tiếp đón nồng hậu, lịch sự. Trong
khi đó, đối xử với người nhà thì lạnh nhạt, bất lịch sự. Khách đến nhà chơi thì
chỉ trong thoáng chốc, vậy mà được đối xử tử tế. Còn người cùng sống với ta,
sao lại không tử tế như đối với khách để cuộc đời hạnh phúc hơn một chút.
Vậy thì cách xử sự của cô gái này có điểm
gì lạ? Cô xử sự một cách formal ở nơi không ai thấy, nghĩa là trong bối cảnh
informal. Đây chính là điểm đặc biệt của đoạn văn này. Nó cũng thể hiện quan điểm
chung của Phật học: con người ta không nên sống hai mặt, cái thể hiện ra cũng
đúng là cái ta suy nghĩ. Xử sự ở nơi công cộng cũng giống như ở một mình. Nếu bạn
khen một người thì đó cũng phải là điểm đáng khen thật sự. Nếu bạn lịch sự với
một người thì đó cũng phải do sự tôn trong Phật tính bên trong con người đó. Nếu
bạn nói điều mà bạn không nghĩ như thế thì đó là tội nói dối. Nếu bạn tử tế với
người ngoài thì cũng nên tử tế với người cùng sống với mình.
Lúc bấy giờ vua Ba-la- nại, ngang qua cửa
sổ đang nhìn xuống. Vua thấy nữ nhân ấy liền suy nghĩ : Người này trong khi giải
tỏa sự bức bách của thân tại sân vua như vậy, vẫn biết tránh các lỗi lầm và
nguy hại của lỗi lầm, dùng áo đắp che đậy, giải tỏa bức bách xong, đứng dậy một
cách nhanh nhẹn.
Nhà vua đã thấy các hành động của cô gái.
Bằng kinh nghiệm trị vì của mình, vua nhận thấy các điểm đặc biệt trong hành vi
của cô. Dù không có ai, cô cũng hành động
một cách thận trọng, không buông tuồng. Ngày xưa, các cụ lớn tuổi, khi dựng
vợ gả chồng cho con cái cũng sự dụng biện pháp” quan sát thực tế”, hay “ coi mắt”
để có thể thấy được các hành vi…. In formal của…. đối tác. Vua suy đoán:
Nữ nhân này chắc chắn khẻo mạnh, nhà cửa nữ
nhân này sạch sẽ,Với nhà cửa sạch sẽ, nếu có một đứa con thì đứa con ấy sẽ được
sạch sẽ và sống có giới đức. Ta phải đặt người này lên làm hoàng hậu.
Nhà vua đang thực hiện một công đoạn của một
nhà tướng số. Các sách nhân tướng đều phát biểu theo dạng:” người có tướng X ”
thì ” có tính tình, đặc tính Y”. Chẳng hạn, có sách ghi :” người hay rung đùi
thì tán tài”. Sách nhân tướng chỉ là tập hợp các cách ”nhận dạng” như vậy. Người
đọc sách tự hỏi:” vì sao bị tán tài?”
thì sách nhân tướng ấy không có câu trả lời. Hỏi đi hỏi lại, thầy tướng số sẽ
trả lời:” các bậc tiên thánh, cổ nhân nói như vậy. Nghiệm đi nghiệm lại vẫn thấy
đúng”. Nghĩa là:” lời cổ nhân là tiên đề , đừng hỏi nữa”. Thế là, môn tướng số
trở thành loại ” khoa học huyền bí”.
Câu hỏi ” tại sao có tướng X ấy thì có đặc
tính Y” không được các sách tướng số trả lời. Có chuyện kể rằng: một nhà tướng
số quan sát thấy một vị chẳng có tướng gì quý, nhưng lại là người có nhiều trọng
trách. Vị tướng số này thắc mắc và tìm cách thâm nhập làm gia nhân của vị kia.
Cho đến một ngày, nhà tướng số thấy được quý tướng ( ví như nốt ruồi son…) ẩn
tàng của vị kia, bèn” à thì ra là vậy”. Câu chuyện nghe rất hay, tuy nhiên, suy
nghĩ của nhà tướng số có một số “ tiên đề “:
Mỗi người tài đều có quý tướng. – Qúy tướng
đó phải thể hiện trên thân thể.
Thế nhưng, cũng có các nhà tướng số lại lưu
truyền câu:” tướng tùy tâm sinh, tướng tùy tâm diệt”. Đó là nhận xét đỉnh cao của
các nhà tướng số. Nếu” tướng tùy tâm sinh” thì một câu hỏi căn bản của nhân
sinh cũng được đặt ra:” bằng cách nào có được quý tướng ấy?”. Nếu ” tướng tùy
tâm diệt” thì câu hỏi đặt ra cũng là ” bằng cách nào làm mất cái tướng hạ tiện
mà mình đang có ”. Cái” quý tướng, tiện tướng” biến động theo tâm như vậy thì
làm sao mà rút ra quy luật ? Các nhà tướng số không trả lời câu hỏi này. Họ chỉ
là những nhà hiện tượng học. Câu hỏi đã đánh dấu điểm cuối của môn nhân tướng học.
Muốn trả lời nó, cần phải bắt đầu một con đường khác. Điểm cuối của nhân tướng
học cũng là điểm bắt đầu của Phật học.
Bài kệ đầu tiên của kinh Pháp Cú (phẩm
Song yếu) mà mọi Phật tử đều thuộc lòng, viết.
Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ ý tạo.
Suy đoán về con người theo tướng của họ
cũng chỉ là một cách làm gián tiếp, không theo dõi được các diễn biến của
“tâm”, nguồn gốc của các tướng. Phật học dặn rằng, đừng xem tướng mạo bên ngoài
( lầm chết được!) mà hãy quan sát trực tiếp hành vi. Đoạn văn trên trong Kinh Bổn
Sanh (Chuyện tiền thân Đức Phật) Jàtaka tuy đơn giản nhưng lại đi vào điểm khác
biệt sâu xa của cách xem tướng thông thường và cách xét đoán điển hình dựa
trên nhân quả của Phật học. Đức Phật
nói:
“Tướng của người ngu ở trong hành động ( của
mình):Tướng của người trí ở trong hành động ( của mình)…Có ba pháp này, này các
Tỳ- kheo, là đặc tính của người ngu, là tướng trạng của người ngu, là ấn tích của
người ngu. Thế nào là ba ? Ở đây các Tỳ- kheo, kẻ ngu suy nghĩ ác, nói ác và
làm ác. Nếu người ngu này, này các Tỳ- kheo, không suy nghĩ ác, không nói ác và
không làm ác, thời lấy gì người hiền trí biết được rằng:’ người này là kẻ ngu,
không phải bậc chân nhân’. Có những pháp này, này các Tỳ- kheo, là đặc tính của
người ngu, là tướng trạng của người ngu, là ấn tích của người ngu.
Có ba pháp này, này các Tỳ -kheo, là đặc
tính của người hiền trí, là tướng trạng của người hiền trí, là ẩn tích của người
hiền trí. Thế nào là ba? Ở đây các Tỳ-kheo, người hiền trí suy nghĩ thiện, nói
thiện và làm thiện. Nếu người hiền trí này, này các Tỳ- kheo, không suy nghĩ
thiện, không nói thiện và không làm thiện, thời lấy gì người hiền trí kia biết
được:’ người này là người hiền trí, bậc chân nhân?’ vì rằng, này các Tỳ -kheo,
người hiền trí suy nghĩ thiện, nói thiện và làm thiện, nên người hiền trí kia
biết được:’ người này là người hiền trí, bậc chân nhân,’ có những pháp này, này
các Tỳ- kheo, là đặc tính của người hiền trí, là tướng trạng của người hiền
trí, là ấn tích của người hiền trí”.
( Tăng Chi Bộ Kinh, tập 1.Chương 3: Ba
Pháp, phẩm Người Ngu)
Như vậy , từ một quan sát về hành vi nhỏ,
nhà vua suy đoán các đặc tính về lối sống của cô gái. Việc lối sống không mang
tính hai mặt là một điểm đặc biệt, không phải dễ kiếm . Vua nghĩ rằng nàng có
thể làm hoàng hậu cho mình. Như thế , chỉ nhờ việc cẩn thận trong những việc nhỏ
nhặt mà cô gái được nhà vua phong làm hoàng hậu.
Các suy luận thực tiễn và hướng tới lợi ích như vậy cũng là một đặc
điểm của Phật học. Ngày nay, phim, tiểu Thuyết, báo chí…luôn nói tới” tình yêu”
trong việc tiến tới hôn nhân, xem đó như là điều kiện tiên quyết và là yếu tố
giải quyết mọi vấn đề. nếu hỏi “ có tình yêu đễ làm gì?” câu trả lời hẳn phải
là” để gia đình hạnh phúc”. Vậy thì hạnh phúc mới là cái cần phải quan tâm. Tuy
nhiên, hạnh phúc cần nhiều yếu tố, mà trong đó “ tình yêu” chỉ là một. Phật học
chỉ cho người ta cách suy nghĩ thực tế
hơn, quan sát nếp sống của người mà ta định chọn để lập gia đình: Người này có
mạnh khỏe không? Ăn ở có sạch sẽ không? Nếp sống có giới đức hay không?
Nhà vua, sau khi biết được nữ nhân này
chưa thuộc sở hữu của ai, bèn cho gọi nữ nhân ấy đến và đặt vào địa vị hoàng hậu. Nàng
trở thành người vua yêu thương và ưa thích. Không bao lâu nàng sanh được người
con trai. Nhà vua đặt người con trai nàng lên làm Chuyển luân vương.
Sau khi có các phỏng đoán như vậy, vua tiến
hành kiểm tra các phỏng đoán này, đặc biệt là việc cô đã có gia đình hay chưa.
Các suy đoán cần phải được kiểm nghiệm bằng thực tế. Sau khi đã kiểm nghiệm bằng
thực tế. Sau khi đã kiểm tra tất cả, vua
cưới nàng làm vợ.
Bồ- tát khi nghe câu chuyện về sự may mắn
của nàng, dùng cơ hội này thưa với nhà vua: Phàm việc gì cần phải làm cho được
tốt đẹp , sao lại không cho học tập. Sự việc này, do nữ nhân này có công đức lớn
khi giải tỏa sự bức bách của thân, vẫn biết tránh các lỗi lầm và nguy hại của lỗi
lầm, biết dùng phương tiện che đậy, khiến nhà vua đẹp lòng và ban cho nàng phước
lợi như vậy.!
Nhà vua khi cưới hoàng hậu, chỉ mới có nhận
xét về đặc tính cẩn thận của nàng ở chỗ riêng tư. Bồ – tát- ở đây, trong văn cảnh
của Jàtaka, chính là để chỉ một tiền
thân của Đức Phật Thích Ca- không dè bỉu, không hạ thấp sự may mắn của cô gái
nhà quê. Không cho rằng cô là ….mèo mù vớ cá rán. Ngài tùy hỷ công đức, vui khi
thấy người khác làm điều lành. Ngài vui khi thấy được công đức của cô gái là
vui theo niềm vui của cô gái. Đây chính là con đường vương giả trong việc tích
lũy công đức. Chia sẽ tài sản, cúng dường người có đức…đều đem lại công đức.
Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là: làm sao để có công đức nhiều nhất mà cố gắng ít
nhất? Phật học đã chỉ ra một phương pháp…chẳng cần làm gì cả mà vẫn có công đức.
Đó chính là tùy hỷ công đức. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng viết: mỗi ngày tôi chọn
một niềm vui. Nếu tùy hỷ công đức, mỗi ngày bạn sẽ không phải chỉ có một mà có
vô số niềm vui vì trong ngày, chắc chắn bạn sẽ gặp nhiều niềm vui của rất nhiều
người. có truyến thống Phật giáo còn định lượng hẳn hoi: nếu vui theo niềm vui
của người có sự tự điều chỉnh cao hơn mình thì mình sẽ được một nửa công đức
đó. Nếu vui theo niềm vui của người có sự
tự điều chỉnh, kém hơn mình thì mình sẽ có công đức… gấp đôi người đó. Bồ – tát
nhân câu chuyện của hoàng hậu, nâng nó lên thành một bài học phổ quát hơn để
giúp ích cho nhiều người hơn. Theo ngài, mọi việc, dù ở nơi riêng tư, cũng cần
phải làm cho tốt đẹp.
Nói xong, để tán thán mọi việc cần phải
làm cho được tốt đẹp, Bồ-tát nói lên bài kệ:
Hãy học điều cần học
Dầu có kẻ cứng đầu
Kẻ quê khéo tiểu tiện
Làm đẹp lòng nhà vua.
.
Bài:Tấn Nghĩa | ảnh : Trần Thanh Vỹ