Một thời Đức Phật ở nước Xá-vệ, có bốn vị tân Tỳ-kheo
trong lúc dạo cảnh mùa xuân cùng nhau hý luận, họ hỏi nhau: “Sống ở trên đời,
điều gì là đáng yêu thích khiến người ta vui vẻ sung sướng?”. Một người trả lời:
“Mùa xuân trăm hoa khoe sắc, ngàn tía muôn hồng, phong cảnh hữu tình, du xuân
thưởng ngoạn đó đây thật là điều vui thích”.
Người thứ hai nói: “Bà con bạn bè hội họp, chén tạc chén
thù, ca múa hát xướng mới là điều vui thích nhất”.
Người thứ ba phát biểu: “Có thật nhiều tiền của, nhà cửa
sang trọng, vợ đẹp con xinh, quyền cao chức trọng, ăn ngon mặc đẹp, xuống ngựa
lên xe, kẻ hầu người hạ, đó là điều vui thích nhất”.
Người thứ tư đưa quan điểm của mình: “Sắc đẹp mỹ miều,
yêu kiều diễm lệ, mắt long lanh như nước biếc, môi xinh thắm như hoa cười, lời
nói rót mật vào lòng, đó là điều khiến người ta vui thích nhất”.
Đức Phật thấy bốn vị Tỳ-kheo này vì thất niệm mà để tâm
ý dong ruổi theo vọng tình. Ngài biết có thể độ họ, bèn đi đến hỏi: “Các ông
đang bàn luận chuyện gì thế?”. Bốn người thành thật kể lại cho Đức Phật nghe
suy nghĩ của họ về những lạc thú trên đời. Nghe xong Đức Phật bảo:
“Những điều các ông cho là vui thích thường đưa con người
đến chỗ mê muội, lo lắng, sợ hãi, khổ não, oán thù; đó không phải là pháp tuyệt
đối an vui và mãi mãi hoan lạc, càng tham đắm thì càng phiền não khổ đau. Các
ông cần nên quán xét, mùa xuân vạn vật tốt tươi, sang mùa thu mùa đông thì úa
tàn rơi rụng. Bà con, bạn bè sum vầy vui vẻ rồi phải chịu cảnh chia ly, càng
vui vẻ bao nhiêu thì càng khổ sầu bấy nhiêu. Tài sản của cải là của chung năm
nhà: vua quan, trộm cướp, con cái, nạn nước trôi, nạn lửa cháy, chúng không là
tài sản của riêng ai, nay trong tay người này mai vào tay kẻ khác, chúng không ở
mãi với chúng ta. Thê thiếp xinh đẹp là đầu mối yêu ghét, càng nhiều thê thiếp
thì càng lo âu phiền não, càng bận bịu buộc ràng; càng đắm sác mê hương thì
càng hao mòn thân thể, suy tổn tinh thần. Là người xuất gia từ bỏ con đường thế
tục, quyết chí cầu đạo, không đắm nhiễm lạc thú thế gian, hành đạo vô vi sẽ tự
nhiên đạt được Niết-bàn an lạc, đây mới là chỗ tuyệt đối an vui”.
Bốn vị Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, trong lòng hổ thẹn ăn
năn, bèn nhiếp tâm chánh niệm dứt trừ vọng tưởng, tham dục không còn, liền chứng
ngay thánh quả.
Buồn và vui, hạnh phúc và đau khổ là hai trạng thái đối
lập nhưng không tách rời nhau như mặt trái và mặt phải của một bàn tay. Trên đời
có bao nhiêu niềm vui là có bấy nhiêu nỗi khổ, không nơi nào trên thế gian chỉ
có toàn niềm vui hoặc toàn nỗi khổ.
Xét cho cùng, những niềm vui thế tục đều do các nhân tố
bên ngoài mang lại, con người xem những nhân tố đó là điều kiện của hạnh phúc.
Khi có những điều kiện đó thì con người mới có được niềm vui, mới có được hạnh
phúc, còn như không có những điều kiện đó, hoặc những điều kiện đó có rồi nhưng
bị mất đi thì hạnh phúc cũng không còn. Nhưng bản chất cuộc đời là vô thường,
do đó không có gì là trường cửu bất biến, vạn sự vạn vật trên đời đều luôn đổi
thay trong từng giây từng phút. Vì thế, nếu niềm vui và hạnh phúc của con người
được xây dựng dựa trên những nhân tố vô thường sinh diệt thì bản chất những niềm
vui hạnh phúc đó cũng không trường cửu, chúng cũng luôn đổi thay, vô thường
sinh diệt. Hạnh phúc mà đa phần thế gian đang mong cầu tìm kiếm chính là thứ hạnh
phúc mong manh, tạm bợ này, thứ hạnh phúc đó đến rồi đi khiến cho cuộc đời là
những ngày tháng buồn vui xem lẫn.
Người ta nghĩ rằng làm gì có thứ hạnh phúc không do các
điều kiện bên ngoài mang lại. Không có tiền tài danh vọng, không được ăn ngon mặc
đẹp, hưởng thụ các thú vui khoái lạc thì làm sao vui? Trong xã hội tiêu thụ thực
dụng, người ta đã quen tìm niềm vui trong vật dục, là những ham muốn về vật chất,
nên họ không thể tin có một thứ hạnh phúc khác ngoài hạnh phúc đó. Tuy nhiên,
có những người tìm thấy niềm vui, niềm hạnh phúc mà không cần nhiều những yếu tố
vật chất bên ngoài và không lệ thuộc tiền tài, danh vọng, quyền lực…Đó là các
nhà khoa học có tâm huyết, lấy sự nghiên cứu, cống hiến cho khoa học, cho nhân
loại làm hạnh phúc, làm niềm vui; các nhà giáo dục sống vì sự nghiệp giáo dục,
vì tương lai thế hệ trẻ; các nhà làm nghệ thuật như nhà văn, nhà thơ, họa sĩ,
nghệ sĩ, nhà điêu khắc…sống để làm đẹp cuộc đời, mang lại niềm vui cho mọi người;
các nhà từ thiện hết lòng với việc chia sẻ nỗi khổ niềm đau và mang lại hạnh
phúc cho người khốn khổ…Họ sống giản dị, đời sống vật chất nghèo nàn, nhưng họ
giàu có về tâm hồn, họ tìm thấy hạnh phúc, niềm vui trong công việc, trong sự
nghiệp cống hiến. Một người hỏi Carl Vinhem Scheele – nhà hóa học nổi tiếng người
Thụy Điển sống vào thế kỷ XVIII – khi thấy ông sống trong cảnh nghèo nàn: “Thưa
ngài, chẳng lẽ bao công trình và danh tiếng khoa học của ngài lại chỉ đem đến
cho ngài cuộc sống như thế này thôi sao?”. Scheele đã trả lời rằng: “Thế ông
cho rằng khoa học chỉ là phương tiện để kiếm sống thôi ư?”. Niềm vui và hạnh
phúc của nhà khoa học chân chính là những thành tựu khoa học, và những cống hiến
cho cuộc đời.
Đó là chưa kể đến những nhà tu hành, nguồn hạnh phúc mà
họ tìm thấy càng cao quý hơn. Họ từ bỏ đời sống vật dục, sống cuộc sống thanh bần
và vui với đạo để phụng sự chúng sinh, nhưng niềm hạnh phúc của họ vô biên. Niềm
vui của họ là thiền duyệt – niềm vui có từ thiền định, là pháp hỷ – niềm vui có
từ việc tu học Phật pháp, và cao tột là Niết-bàn – niềm vui tự tại giải thoát,
không còn bất cứ phiền não khổ đau nào, trạng thái hoàn toàn an lạc. Trong lịch
sử có không ít vị vua quan từ bỏ đời sống vương giả, các bậc phú hộ từ bỏ đời sống
giàu sang danh vọng để đi tu; nhiều nhà khoa học, nhà chính trị, triết gia ngày
nay cũng sẵn sàng từ bỏ địa vị, danh tiếng để trở thành những nhà tu hành, do họ
tìm thấy được nguồn an lạc, hạnh phúc mà phía sau không có sự giấu mặt của đau
khổ, là thứ hạnh phúc mà trên thế gian không có thứ hạnh phúc nào vượt lên được.
Thời Phật tại thế có Tỳ-kheo Bạt-đề, khi chưa xuất gia
ông làm quan, sau khi quy-y Phật ông chuyên tu hạnh đầu đà, chỉ ngủ dưới gốc
cây và tinh cần thực hành thiền quán. Một đêm, trong lúc hành thiền bỗng ông
reo lên: “Hạnh phúc quá! Hạnh phúc quá!”. Những vị Tỳ-kheo đang tu tập gần đó hết
sức ngạc nhiên, không ai hiểu chuyện gì. Sáng hôm sau có một vị đến trình sự việc
đó với Đức Phật rằng: “Có lẽ Tỳ-kheo Bạt-đề cảm thấy không thoải mái và đang
nhàm chán đời sống xuất gia, vị ấy đã nghĩ đến đời sống thế tục giàu sang danh
vọng trước kia, cảm thấy thích thú mà thốt lên như thế”.Đức Phật bèn cho gọi Tỳ-kheo
Bạt-đề vào hỏi nguyên do. Đứng trước chúng hội đông đảo hàng xuất gia lẫn tại
gia, Tỳ-kheo Bạt-đề chấp tay bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, ngày trước con làm quan,
cuộc sống giàu sang, có quyền lực, danh vọng, địa vị, vợ đẹp con xinh, kẻ hầu
người hạ, thế mà con không cảm thấy an ổn, thoải mái, không cảm thấy vui vẻ, hạnh
phúc, con luôn sống trong căn thẳng, lo âu, phiền muộn, sợ hãi. Lo chuyện an
nguy, thịnh suy được mất, ngày ăn không ngon, đêm ngủ không yên giấc. Từ khi xuất
gia, con không còn tài sản của cải, quyền lực danh vọng, không còn nhà cao cửa
rộng, kẻ hầu người hạ, mỗi ngày chỉ ăn một bữa cơm thanh đạm, tối đến ngủ dưới
gốc cây, thế mà lòng con cảm thấy thảnh thơi an lạc.
Đêm hôm qua trong lúc thiền
định, con cảm nhận được niềm an lạc, hạnh phúc vô biên mà trước đây chưa từng cảm
nhận được, nên buộc miệng thốt lên lời vui mừng làm kinh động đến Thế Tôn và
các bạn đồng tu. Con xin thành tâm sám hối!”. Đức Phật đã khen Tỳ-kheo Bạt-đề rằng:
“Hay lắm Tỳ-kheo Bạt-đề! Ông đang đi những bước vững chãi, thảnh thơi an lạc
trên lộ trình giải thoát. Niềm an lạc của ông, cả chư thiêng cũng ước ao huống
chi là người đời!”.
Thế gian thường khổ lụy vì tham đắm năm dục: tài (tiền bạc,
của cải), sắc (sắc đẹp, chủ yếu là nữ sắc), danh (danh tiếng, địa vị, sự trọng
vọng), thực (uống ăn hưởng thụ), thùy (ngủ nghỉ), hay nói rộng hơn là sắc (hình
sắc), thanh (âm thanh êm tai), hương (mùi thơm thích thú), vị (vị ngon khoái khẩu),
xúc (tiếp xúc, xúc chạm ưng ý). Người sống trên đời lấy ngũ dục làm niềm vui,
làm niềm hạnh phúc: Ăn ngon mặc đẹp khiến người ta vui; đàn đúm, rượu chè khiến
người ta vui; tình cảm trai gái, sắc dục khiến người ta vui; giàu có, sang trọng
khiến người ta vui; nổi tiếng, được nhiều người trọng vọng khiến người ta vui
v.v. Khi không có ngũ dục hoặc không có đủ ngũ dục thì con người cảm thấy thiếu
thốn, buồn tẻ, cuộc sống nhạt nhẽo, vô vị, thậm chí đau khổ. Đời sống không thể
không có tài, sắc, danh, thực, thùy hay sắc, thanh, hương, vị, xúc; bởi những
thứ đó làm nên xã hội, tạo nên cuộc sống, ai thoát khỏi những thứ đó thì đã
không sinh ra ở cõi đời ngũ trượt này (ngoại trừ chư Phật và các bậc Bồ-tát vì
bi nguyện độ sinh). Nhưng ngũ dục cũng là nguồn gốc của bất an, đau khổ trong đời
này và dẫn đến sa đọa vào các cảnh khổ địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh sau khi thân
này không còn nữa.
Bởi ngũ dục thường khiến cho con người mê đắm, tham cầu, tác
hại của chúng là: gây tranh đấu (tranh giành, chiếm đoạt), làm con người khổ
não (vì muốn mà không được, cầu mà không thấy, hoặc vì có rồi mà bị mất mát
v.v.), làm cho con người điên đảo vì chúng có đó rồi mất đó, phù du tạm bợ, vô
thường, không trường cửu. Trong kinh Bát
Đại Nhân Giác có nói: “Đa dục vi khổ. Sinh tử bì lao, tùng tham dục khởi. Thiếu
dục vô vi, thân tâm tự tại”, nghĩa là Tham muốn nhiều thì khổ. Sinh tử nhọc nhằn
đều từ tham muốn mà ra. Ít tham muốn, vô vi (không tạo tác với ý niệm tham,
sân, si) thì thân tâm tự tại.
Hầu như mọi người đều xem mục tiêu của đời mình là làm
sao để tồn tại trên thế gian và hưởng thục được nhiều lạc thú, thỏa mãn những
nhu cầu, tham muốn. Và người ta cật lực thực hiện điều đó bằng trí óc, bằng
công sức, bằng âm mưu thủ đoạn, bằng tội ác…Nhưng có những điều mà con người ít
khi lưu tâm đến, đó là: Lòng tham muốn của con người thì vô cùng vô hạn, chỉ có
thể tìm thấy sự thỏa mãn tạm thời chứ không có sự thỏa mãn lâu dài, chính vì thế
mà con người thường rơi vào nhàm chán, thát vọng, mệt mỏi. Vạn sự vạn vật đều
vô thường, luôn biến hoại, đổi thay chính là điều bất như ý khiến cho con người
khổ não. Do điên đảo tạo tác mà phải nhận lãnh hậu quả, càng điên đảo tạo tác
thì đời sống càng rối ren, phức tạp, đa đoan, nhân duyên chằn chịt buộc ràng,
con người càng khó tìm ra sự thảnh thơi an lạc.
Trên thế gian con người có thể tìm được niềm vui, tìm được
hạnh phúc từ nhiều yếu tố, từ nhiều điều kiện nhân duyên, nhưng đâu là niềm
vui, niềm hạnh phúc đích thực không có những hệ lụy, không dẫn đến bất an đau
khổ, đâu là niềm vui, niềm hạnh phúc lâu dài, miên viễn? Làm sao để sống an lạc
trong hiện tại và tương lai? Chỉ có con đường “không đắm nhiễm lạc thú thế
gian, hành đạo vô vi” mới đạt đến chỗ tuyệt đối an vui như lời Đức Phật đã dạy.
Phan Minh Đức