Tuesday, October 5, 2021

KINH TỤNG BUỔI CHIỀU


 


 

PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

Nghi Thức Tụng Niệm

Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam

 

ĐẢNH LỄ TAM BẢO

 

Nhất tâm Đảnh lễ Đức Thế tôn,

bậc A La Hán Chánh đẳng chánh giác,

Ngài là Thiên nhân từ phụ bi trí vẹn toàn.

Nhất tâm Lễ bái Giáo pháp,

do đức Thế tôn khéo thuyết giảng,

đạo chuyển mê khai ngộ,

thiết thực hiện tiền vượt thời gian.

Nhất tâm Kính lễ Chư thánh hiền tăng,

đệ tử của đức Thế tôn,

các ngài là bậc hoằng truyền chánh pháp,

xứng đáng cho chúng sanh lễ bái cúng dường.

 

NAM MÔ THẾ TÔN ỨNG CÚNG CHÁNH BIẾN TRI (3 lần)

 

LỄ DÂNG NHANG ĐÈN

 

Con xin dâng các lễ vật nầy

Nhất là nhang đèn để cúng

Phật - Pháp – Tăng - Tam bảo,

ngưỡng cầu cho các bậc ân nhân

nhất là cha mẹ con và con,

đều được sự tấn hóa,

sự lợi ích, sự bình an lâu dài.

 

LỄ TAM BẢO TÓM TẮT

 

Con đem hết lòng thành kính

làm lễ Ðức Phá gá va đó.

Ngài là bậc Á rá hăn cao thượng

được chứng quả Chánh Biến Tri,

do Ngài tự ngộ không thầy chỉ dạy.

 

Ân Đức Phật

 

Hồng danh Phật nhiệm mầu Ứng Cúng

Chánh Biến Tri, Minh Hạnh đủ đầy

Ơn đức Thiện Thệ cao dày

Bậc Thế Gian Giải chỉ bày chân tâm

Vô Thượng Sĩ đoạn mầm ách phược

Bậc trọn lành Điều Ngự Trượng Phu

Trời, người quy phục Đạo Sư, Phật,

Thế Tôn hiển Chân Như độ đời.


Ân Đức Pháp Bảo

 

Pháp Vi Diệu Cha Lành khéo dạy

Lìa danh ngôn hý luận, nghĩ bàn

Vượt thời gian, vượt không gian

Thiết thực hiện tại hoát nhiên tỏ tường.

Pháp hướng thượng đến rồi thấy rõ

Lìa si mê xả bỏ vọng trần

Trí nhân ngộ tánh chân nhân

Tự mình chứng nghiệm Pháp thân diệu thường.

 

Ân Đức Tăng Bảo

 

Bậc Diệu Hạnh, Thanh văn đệ tử

Bậc Chánh Chân, Pháp lữ Tăng già

Bậc Mô Phạm cõi ta bà

Thân tâm trực hạnh, lìa xa luân hồi.

Thành đạo quả: Bốn đôi, tám chúng

Đệ tử Phật, Ứng Cúng tôn nghiêm

Cung nghinh, kính lễ một niềm

Thánh đức cao cả, phước điền dày sâu.

 

 

KỆ ÐỘNG TÂM

 

Pháp nào có tên gọi là Vô Thường,

là Pháp có trạng thái thay đổi không thường,

Pháp ấy chẳng phải chỉ để riêng

cho những người trong một xứ,

chẳng phải chỉ để riêng

cho những người trong một xóm,

chẳng phải chỉ để riêng

cho những người trong một gia tộc đâu,

Pháp ấy để chung cho nhân loại,

súc sanh, luôn đến Chư Thiên

Ma Vương cùng Phạm Thiên cả thảy.

 

Pháp nào có tên gọi là Khổ Não,

là Pháp có trạng thái đau đớn buồn rầu,

Pháp ấy chẳng phải chỉ để riêng cho

những người trong một xứ,

chẳng phải chỉ để riêng cho

những người trong một xóm,

chẳng phải chỉ để riêng cho

những người trong một gia tộc đâu,

Pháp ấy để chung cho nhân loại,

súc sanh, luôn đến chư Thiên,

Ma Vương cùng Phạm Thiên cả thảy.

Pháp nào có tên gọi là Vô Ngã,

là Pháp có trạng thái

không phải là của ta,

pháp ấy chẳng phải chỉ để riêng

cho những người trong một xứ,

chẳng phải chỉ để riêng

cho những người trong một xóm,

chẳng phải chỉ để riêng cho

những người trong một gia tộc đâu,

Pháp ấy để chung cho nhân loại,

Súc sanh, luôn đến chư Thiên,

Ma Vương cùng Phạm Thiên cả thảy.

 

Thân này chẳng tồn tại bao lâu đâu,

khi tâm thức lìa bỏ rồi,

thì nằm trên mặt đất,

như đống tro tàn

tìm sự lợi ích chẳng có.

Tuổi thọ, chất lửa, hoặc tâm thức,

khi lìa bỏ thân này trong giờ nào rồi,

thân này không nên hoàn để trong nhà,

người đời họ đem liệng bỏ,

nằm trên mặt đất trong giờ ấy

như đống tro tàn

tìm sự lợi ích chẳng có.

 

Tất cả chúng sanh

chỉ sẵn dành để chịu chết đều nhau cả,

vì sanh mạng của tất cả chúng sanh,

chỉ có sự chết là nơi cuối cùng.

 

Tất cả chúng sanh

đều phải chịu quả phước cùng quả tội,

vừa theo cái nghiệp của mình đã tạo,

rồi đi thọ sanh trong kiếp sau,

chúng sanh nào làm việc dữ,

phải chịu khổ trong cảnh địa ngục.

Chúng sanh nào làm việc lành,

được thọ vui trong cõi thiên đàng.

 

Cho nên, người đời cần phải hối hả,

Làm việc phước đức

mà các bậc trí tuệ hằng tha thiết

cho đặng làm của để dành,

dính theo trong đời vị lai,

vì các việc phước đức,

là nơi nương nhờ

của tất cả chúng sanh trong ngày vị lai.

 

Các Pháp Hữu vi thật không bền vững,

nó có tánh sanh diệt là thường,

vì nhân sanh rồi diệt, diệt rồi sanh,

(nên thường hay có sự khổ não),

chỉ có Niết Bàn là Pháp tịch diệt,

dứt cả Pháp Hữu Vi ấy được,

mới có sự an vui tuyệt đối.

 

QUÁN TƯỞNG

 

Thế Tôn diện mạo rất mầu

Đáng cho muôn loại cúi đầu Quy y

Thế Tôn đức hạnh từ bi

Đáng cho muôn loại kính vì mến yêu

Thế Tôn trí tuệ cao siêu

Đáng cho muôn loại nương theo tu hành

Thế Tôn đức hạnh trọn lành

Đáng cho muôn loại dâng cành hương hoa

Thế Tôn từ phụ chúng ta

Nghiêng mình lễ bái hương hoa cúng dường.

 

Thế Tôn lời dạy tỏ tường

Năm điều quán tưởng phải thường xét ra

Ta đây phải có sự già

Thế nào tránh thoát lúc qua canh tàn

Ta đây bịnh tật phải mang

Thế nào tránh thoát đặng an mạnh lành

Ta đây sự chết sẵn dành

Thế nào tránh thoát tử sanh đến kỳ

Ta đây phải chịu phân ly

Nhân vật quý mến ta đi biệt mà

Ta đi với nghiệp của ta

Dầu cho tốt xấu tạo ra tự mình

Theo ta như bóng theo hình

Ta thọ quả báo phân minh kết thành.

 

Nhìn ta bọt nước cành sương

Lầu sò, chợ bể vô thường biến thôi. (Lầu sò,:để chỉ thị cảnh huyễn hóa không thật.)

Mắt kia nhìn thấu lẽ đời

Tử thần khỏi sợ, sống vui nếp hiền.

Một khi thần chết hiện về,

Nào ai có thể chở che cho mình.

Vợ, con, quyến thuộc chí tình,

Ngậm ngùi chỉ biết đứng nhìn buồn thôi.

 

Già nua ngẫm cái hình hài

Rừng đau thương có lâu dài được đâu.

Hợp tan đã thấy liền nhau

Khi vui phải có lúc sầu đó ai

Nhìn ta thân thể mỹ miều

Đống xương chồng chất bao nhiêu khổ sầu.

 

Bận tâm trang điểm, dồi trau,

Thật không bền vững bấy lâu tưởng lầm

Cho dù bay vút lưng trời

Cho dù đáy biển trốn thời được đâu.

Cho dù núi thẳm hang sâu,

Tử thần đã đến bôn đào thoát sao.

 

Đời người như lá héo,

Diêm xứ chực chờ ngươi.

Đang đứng trước cửa chết,

Đường trường thiếu tư lương.

Đời người nay sắp tàn,

Tiến gần đến cõi chết

Dọc đường không quán trọ

Dặm trường thiếu tư lương.

 

Người đời hay sát sanh,

Nói láo, không chân thật,

Lấy của người không cho,

Qua lại với vợ người,

Uống rượu men rượu nấu.

Đam mê những thứ ấy,

Là tự chôn đời mình,

Là bứng đào gốc thiện.

 

Con tôi, tài sản tôi,

Nghĩ quấy người ngu khổ,

Thân ta còn không có,

Con đâu tài sản đâu?

Trước kia lỡ dể duôi

Sau này không phóng dật

Rực sáng giữa cõi đời

Thoát mây trăng vằng vặc.

 

Khéo dụng các hạnh lành

Xóa tan các nghiệp ác

Rực sáng giữa cõi trần,

Thoát mây trăng chiếu mát.

Bát chánh: đường thù thắng,

Tứ đế, lý thù thắng,

Ly tham, pháp thù thắng,

Pháp nhãn, người thù thắng.

Hãy nói thật, không giận,

Hãy bố thí chút ít,

Nhờ ba việc lành này,

Người đến gần Thiên giới.

 

Hiền nhân không hại ai,

Thân thường được chế ngự,

Đạt được cảnh bất tử,

Đến đây không ưu sầu.

Khát ái sinh sầu ưu,

Khát ái sinh sợ hãi,

Giải thoát được khát ái,

Không sầu, đâu sợ hãi.

 

Khách lâu ngày ly hương,

An ổn từ xa về,

Bà con cùng thân hữu,

Hân hoan đón chào mừng.

Cũng vậy các phước lành,

Đón rước người làm phước,

Sau khi bỏ đời này,

Như rước người thân vậy.

 

Chớ sống gần người yêu,

Cũng đừng gần người ghét,

Yêu phải xa là khổ,

Ghét phải gặp cũng đau.

 

Lửa nào bằng lửa tham

Tội nào bằng tội sân

Khổ nào bằng khổ uẩn

Lạc nào bằng tịnh lạc

Hiền nhân bỏ tất cả

Tịnh giả không bàn dục

Dù cảm thọ lạc, khổ

Bậc trí không vui buồn

Nếu thấy bậc hiền trí,

Chỉ lỗi và khiển trách,

Như chỉ chỗ chôn vàng.

 

Hãy thân cận người trí,

Thân cận người như vậy,

Chỉ tốt chớ không xấu.

Những người hay khuyên dạy,

 

Ngăn người khác làm ác,

Được người hiền kính yêu,

Bị người ác không thích.

Ai sống một trăm năm,

Không thấy pháp sanh diệt,

Tốt hơn sống một ngày,

Thấy được pháp sanh diệt.

Ai sống một trăm năm,

Không thấy đạo bất tử,

Tốt hơn sống một ngày,

Thấy được đạo bất tử.

 

KỆ KHUYẾN TU

 

Việc trần thế, khuyên ai phải ngẫm

Danh mà chi, lợi lắm mà chi

Bả công danh, bọt nước ra gì

Mùi phú quý, vầng mây tan hợp

 

Sang cho mấy cũng rồi một kiếp

Giàu đến đâu chỉ hưởng một đời

Lẽ tử sanh đeo đuổi kiếp người

Thân tứ đại lấy đâu làm chắc

 

Kìa! Sanh tử thấy liền trước mắt

Chốn mộ phần lắm kẻ thanh xuân

Tấm thân này vốn chỉ giả thân

Nay còn đó, mai chưa chắc được

Phần nỗi bệnh, nỗi già thúc phược

Sống trên đời, sống được bao lâu?

Mới tóc xanh kế đã bạc đầu.

Rồi lại đến gò hoang một nấm

Ôi! Hơi thở - khí nhân duyên mượn tạm

Một sớm vô thường trả lại thôi

 

Muôn việc đều nương mấy tấc hơi

Hơi vừa dứt, việc đời cũng dứt

Nào sự nghiệp, nhân thân, tài vật

Nhắm mắt rồi lại nắm tay không

 

Sanh giả, không, hề! Tử giả, không

Đất, nước, lửa có đâu tồn tại!

Rồi tử sanh, luân hồi mãi mãi

Nổi trôi theo bể khổ trầm luân.

 

Ngẫm ngán thay định luật Vô Thường

Khuyên nhân thế tầm đường giải thoát

Nếu chí nguyện thanh cao mong đạt

Cần nương theo giáo Pháp Phật Đà (Buddha)

Dốc một lòng tự giác, giác tha

 

Hành Bát Chánh hướng về Đạo Quả

Kíp thức tỉnh, mê đồ buông xả

Thôi đắm say huyễn hóa hồng trần

Ly não phiền, Phật cảnh cao đăng

Thành Chánh quả vô sanh bất diệt.

 

KỆ TỈNH THỨC

 

Lẽ tử sanh xưa nay thường sự

Khổ biệt ly muôn thuở đương nhiên

Khách hồng trần trăm nỗi đảo điên

Bậc thiện trí vượt ngoài hệ lụy

Cuộc trầm luân khởi từ vô thủy

Nước mắt nhiều hơn bốn đại dương

Ðã bao đời dâu bể tang thương

Xương trắng trải phủ đầy đại địa

 

Dù một kiếp trọn vui không dễ

Những phù du hưng phế đổi thay

Tuổi thanh xuân ngẫm có bao ngày

Già đau chết hỏi ai tránh khỏi

 

Kìa bao cuộc thăng trầm danh lợi

Những nhục vinh kết nối liền nhau

Khi qua rồi còn lại niềm đau

Gió đời thổi phàm tâm xao động

 

Kìa yêu thương buồn vui huyễn mộng

Tình thân nhân bằng hữu phu thê

Thương phải xa ghét phải gần kề

Ai trọn kiếp không điều ngang trái

 

Kìa sự nghiệp bạc vàng của cải

Ðổ mồ hôi nước mắt dựng xây

Vật ở đời tay lại qua tay

Buông tất cả khi tàn hơi thở

 

Kìa kiến chấp hữu vô ngã sở

Bao tị hiềm cùng chuyện can qua

Lắm đổi dời trong mỗi sát na

Hạnh phúc đó não phiền cũng đó

 

Người trí hiểu căn nguyên thống khổ

Tìm hướng đi thoát ngõ quẩn quanh

Ngược dòng mê chánh đạo thực hành

Chứng thánh quả đoạn mầm sanh tử

 

Nương Phật Ðà chí tôn chí thánh

Nương giáo Pháp chuyển mê khai ngộ

Nương Tăng già vô thượng phước điền

Nguyện oai đức Tam Bảo gia hộ.

 

KINH HỒI HƯỚNG VONG LINH

Bố cáo

 

Vua Bim-Bí-Sá-Rá

Nằm mộng thấy thân nhân

Bị quả khổ đói lạnh

Ðến bạch hỏi Thế Tôn

Ðức Ðiều Ngự bi mẫn

Chỉ dạy cách tạo phước

Hồi hướng các vong linh

Thoát ly mọi khổ ách.

 

CHÁNH KINH HỒI HƯỚNG

 

Các hương linh quá vãng

Thường đến nhà thân nhân

Ðứng ngoài vách tựa cửa

Ngã đường hay cổng thành

Trông chờ hưởng phước thí

Nhưng vì kém phước duyên

Hương linh bị quên lãng

Thân nhân tạo phước lành

Do công đức bố thí

 

Nên phát nguyện bằng lời:

Nguyện thân nhân quá vãng

Thượng hưởng công đức nầy

Ðược thọ sanh lạc cảnh

Những thân nhân quá vãng

 

Vân tập các đạo tràng

Nhận được phước hồi hướng

Thường thốt lời cảm kích

Mong ân nhân của mình

Ðược trường thọ phúc lạc

 

Người đã tạo công đức

Chắc chắn được quả lành

Trong cõi khổ ngạ quỷ

Không có các sinh kế

Trồng trọt hoặc chăn nuôi

Bán buôn hay trao đổi

Chúng sanh cảnh giới nầy

Hằng mong đợi phước báu

Do thân nhân hồi hướng

 

Như nước trên gò cao

Chảy xuống vùng đất thấp

Phước lành đã hồi hướng

Có diệu năng cứu khổ

Như trăm sông tuôn chảy

Cùng hướng về đại dương

Nguyện công đức đã tạo

Thấu đến chư hương linh

 

Khi người nhớ ân trước

Do tình nghĩa thân bằng

Do tương duyên quyến thuộc

Hãy cúng dường trai tăng

Hồi hướng phước đã tạo

Sự khổ sầu thương cảm

Trước tử biệt sanh ly

Không có lợi ích gì

 

Cho thân nhân quá vãng

Cách trai tăng hợp đạo

Gọi Ðắc-khí-na-đa-ná (Dakkhiṇādāna)

Cúng dường vô phân biệt

Ðến đại chúng Tăng già

Bậc Phạm hạnh giới đức

Bậc Vô thượng phước điền

Ðược vô lượng công đức

Là thắng duyên tế độ

Hương linh trong cảnh khổ.

Do thiện sự đã làm

Do hồi hướng đã nguyện

Do Tăng lực đã cầu

Xin tựu thành phúc quả.

 

THẬP NHỊ DUYÊN KHỞI

 

Vô minh bất giác là duyên

Sinh hành tạo tác chẳng yên chút nào

Thức tâm dao động lao xao

Kiếm tìm danh sắc thai bào thọ sanh

 

Tháng ngày giọt máu lớn nhanh

Sáu căn đầy đủ tượng thành ấu nhi

Nghiệp tâm nuôi lớn từng kỳ

Chào đời mở mắt biết đi đứng rồi

 

Sáu trần đối tượng mớm mồi

Xúc sanh cảm thọ, biết mùi biết hương

Vui buồn, khổ lạc, ghét thương

Thế là sân dục tìm đường nổi lên

 

Ái hà, dòng nước triền miên

Lạc thì cố thủ, khổ liền cố xua

Đầy lòng, trăm chuyện chán, ưa

Ngàn muôn xấu, tốt chẳng vừa góp thâu

 

Hạt mầm ba cõi ẩn sâu

Tạo thành nghiệp hữu dẫn đầu tái sanh

Có sanh, già lão sẵn dành

Rồi tìm sự chết, mối manh có rồi

Là sầu, bi, não không thôi

Là ưu, hận, khổ luân hồi trường miên

Nếu vô minh biết đoạn triền

Chánh niệm, tỉnh giác thường xuyên giữ gìn

 

Đâu còn tạo tác, bíu vin

Hành diệt, thức diệt, tuệ nhìn sáng trong

Danh sắc tìm kiếm tiêu vong

Căn trần xúc đối giữa lòng nhẹ sao

 

Lắng nghe cảm thọ thế nào

Buồn vui, thương ghét chẳng sao động mình

Tham sân thấy rõ sự tình

Ái hà, dòng chảy phiêu linh cạn rồi

 

Đâu còn thủ giữ giống nòi

Đâu còn gieo hữu sáu nơi, ba đường

Không sanh, già lão chẳng vương

Đâu còn sự chết tìm đường ghé thăm

 

Khổ sầu từ đó biệt tăm

Bao nhiêu ưu não tí tăn chẳng còn

Thế là khổ uẩn tiêu mòn

Toàn bộ duyên khởi, khoen tròn lìa tan

Đâu còn sanh tử buộc ràng

Giác ngộ, giải thoát thênh thang cõi bờ.

 

KINH VẠN PHÁP TỔNG TRÌ

Bố cáo

 

Xưa Phật dạy Thắng Pháp

Về bản thể chân đế

Nhờ nghe Vi Diệu Tạng

Phật Mẫu chứng thánh quả

Nay đệ tử chúng con

Trì tụng Mātikā (ba Tạng Giáo Lý của Phật Giáo.)

Nguyện uy đức vô cùng

Ðộ chúng sanh thoát khổ

 

CHÁNH KINH VẠN PHÁP

 

Bản thể pháp gồm bốn

Tâm, tánh, sắc, niết bàn

Phân biệt theo chức năng

Ðồng dị tùy thể loại.

Có thiện, có bất thiện

Có không thiện không ác

Người trí thông lẽ đạo

Không rơi vào biên kiến.

Có pháp tương ưng khổ

Có pháp tương ưng lạc

Có phi khổ phi lạc

Ở đời có cả ba.

Có pháp vốn là nhân

Có pháp vốn là quả

Có pháp không nhân quả

Vượt quan kiến thường tình.

 

Do chấp thủ mà sanh

Lại sanh ra chấp thủ

Không thủ sanh sanh thủ

Không thủ không sanh thủ.

Có pháp là phiền não

Lại sanh ra não phiền

Phi phiền sanh phiền não

Có tâm cảnh vô phiền.

 

Pháp có tầm có tứ

Pháp có tứ không tầm

Có pháp không tầm tứ

Cùng hiện hữu ở đời.

Pháp đi chung với hỷ

Pháp đi chung với lạc

Pháp đi chung với xả

Hành giả cần quán sát.

Pháp nhờ thấy mà diệt

Pháp nhờ tu mà diệt

Có pháp ngoài cả hai

Bậc chân nhân biết rõ.

Có gốc rễ kiết sử

Ðoạn diệt bởi sơ đạo (TầngThánh quả thứ nhất)

Hay bởi ba đạo cao (Ba TầngThánh quả bậc cao)

Không kiết sử không đoạn.

Có pháp nhân sanh tử

Có pháp nhân giải thoát

Có pháp không luân hồi

Cũng không hướng niết-bàn.

Có pháp thuộc hữu học

Có pháp thuộc vô học

Có pháp phi hữu học

Cũng không thuộc vô học.

 

Có pháp vốn cục bộ

Có pháp thuộc đáo đại

Có pháp không hạn cuộc

Do giới vức mà phân.

Pháp biết cảnh tầm thường

Pháp biết cảnh rộng lớn

Pháp biết cảnh vô lượng

Tâm, cảnh vốn tương ưng.

 

Có pháp vốn hạ liệt

Có pháp thuộc trung bình

Có pháp tánh thù thắng

Chức năng có sai biệt.

Pháp cố định thuộc tà

Pháp cố định thuộc chánh

Cũng có pháp bất định

Ðược trí giả nói đến.

 

Pháp lấy đạo làm cảnh

Pháp lấy đạo làm nhân

Pháp lấy đạo làm trưởng

Ba phạm trù đối tác.

Có pháp vốn đã sanh

Có pháp chưa sanh khởi

Có pháp sắp sanh khởi

Tác động hẳn không đồng.

 

Có pháp thuộc quá khứ

Có pháp thuộc vị lai

Có pháp thuộc hiện tại

Tam thế đồng thể tánh.

Có pháp biết quá khứ

Có pháp biết vị lai

Có pháp biết hiện tại

Cả ba được ghi nhận.

Có pháp thuộc nội giới

Có pháp thuộc ngoại giới

Có pháp gồm cả hai

Chủ thể lẫn khách thể.

Có pháp biết nội giới

Có pháp biết ngoại giới

Có pháp biết cả hai

Bên trong lẫn bên ngoài.

 

Pháp thấy và tiếp xúc

Pháp tiếp xúc không thấy

Pháp không thấy không xúc

Cùng là cảnh nhưng khác.

 

Do thể tài mà nói

Do chức năng mà phân

Do góc cạnh mà nhìn

Nên sanh ra đồng dị.

 

VÔ NGÃ TƯỚNG KINH

 

Tôn giả Ānanda có nghe như vầy:

Một thuở nọ, đức Phật ngụ trong rừng Hươu

gần thành Ba-la-nại (Bārāṇasī).

Đức Phật gọi năm Tỳ khưu trong nơi ấy

mà giảng rằng:

Nầy các Tỳ khưu!

Sắc thân là vô ngã,

chẳng phải là của ta.

 

Nầy các Tỳ khưu!

Nếu sắc thân nầy thiệt là của ta,

thì nó không phải chịu sự đau ốm.

Lại nữa, người đời có thể nói:

Xin cho sắc thân của ta như thế nầy,

xin đừng cho sắc thân của ta như thế kia.

 

Nầy các Tỳ khưu!

Sắc thân thiệt là vô ngã,

nên nó hằng chịu sự đau ốm.

Lại nữa, người đời không có thể nói:

Xin cho sắc thân của ta như thế nầy,

xin đừng cho sắc thân của ta như thế kia.

 

Thọ chẳng phải là của ta.

Nầy các Tỳ khưu!

Nếu Thọ thiệt là của ta.

Thọ ấy cũng không phải chịu sự đau khổ.

Lại nữa, người đời có thể nói:

Xin cho Thọ của ta như thế nầy,

xin đừng cho thọ của ta như thế kia.

Nầy các Tỳ khưu!

Thọ thiệt là vô ngã,

nên nó hằng chịu sự đau khổ.

Lại nữa, người đời không có thể nói:

Xin cho thọ của ta như thế nầy,

xin đừng cho thọ của ta như thế kia.

 

Tưởng chẳng phải là của ta.

Nầy các Tỳ khưu!

Nếu Tưởng thiệt là của ta,

Tưởng ấy cũng không phải chịu sự đau khổ.

Lại nữa, người đời có thể nói:

Xin cho Tưởng của ta như thế nầy,

xin đừng cho tưởng của ta như thế kia.

 

Nầy các Tỳ khưu!

Tưởng thiệt chẳng phải là của ta,

nên nó hằng phải chịu sự đau khổ.

Lại nữa, người đời không có thể nói:

Xin cho tưởng của ta như thế nầy,

xin đừng cho tưởng của ta như thế kia.

 

Hành chẳng phải là của ta:

Nầy các Tỳ khưu!

Nếu Hành thiệt là của ta,

hành ấy cũng chẳng phải chịu sự đau khổ.

Lại nữa, người đời có thể nói:

Xin cho Hành của ta như thế nầy,

Xin đừng cho hành của ta như thế kia.

 

Nầy các Tỳ khưu!

Hành thiệt chẳng phải là của ta,

nên nó hằng phải chịu sự đau khổ.

Lại nữa, người đời không có thể nói:

Xin cho Hành của ta như thế nầy,

xin đừng cho hành của ta như thế kia.

 

Thức chẳng phải là của ta.

Nầy các Tỳ khưu!

Nếu thức thiệt là của ta.

Thức ấy cũng chẳng phải chịu sự đau khổ.

Lại nữa, người đời có thể nói:

Xin cho Thức của ta như thế nầy,

Xin đừng cho thức của ta như thế kia.

 

Nầy các Tỳ khưu!

Thức thiệt chẳng phải là của ta,

nên nó hằng chịu sự đau khổ.

Lại nữa, người đời không có thể nói:

Xin cho thức của ta như thế nầy,

xin đừng cho thức của ta như thế kia.

 

Nầy các Tỳ khưu!

Các ngươi cho Sắc thân

là thường hay vô thường?.

Bạch Đức Thế Tôn,

sắc thân là vô thường.

Vật chi là vô thường

vật ấy khổ hay vui?.

Bạch đức Thế Tôn,

vật ấy là khổ.

 

Vật chi vô thường là khổ,

có sự biến đổi theo lẽ thường

thì nên cho vật đó là của ta,

đó là ta, đó là thân ta chăng?.

Bạch đức Thế Tôn, chẳng nên.

 

Nầy các Tỳ khưu!

Các ngươi cho Thọ

là thường hay vô thường?.

Bạch Đức Thế Tôn,

thọ là vô thường.

Vật chi vô thường

vật ấy khổ hay vui?.

Bạch đức Thế Tôn,

vật ấy là khổ.

 

Vật chi vô thường là khổ,

có sự biến đổi theo lẽ thường,

thì nên cho vật đó là của ta,

đó là ta, đó là thân ta chăng?.

Bạch đức Thế Tôn, chẳng nên.

 

Nầy các Tỳ khưu!

Các ngươi cho Tưởng

là thường hay vô thường?.

Bạch Đức Thế Tôn,

tưởng là vô thường.

Vật chi vô thường

vật ấy khổ hay vui?.

Bạch đức Thế Tôn,

vật ấy là khổ.

 

Vật chi vô thường là khổ,

có sự biến đổi theo lẽ thường,

thì nên cho vật đó là của ta,

đó là ta, đó là thân ta chăng?.

Bạch đức Thế Tôn, chẳng nên.

 

Nầy các Tỳ khưu!

Các ngươi cho Hành

là thường hay vô thường?.

Bạch Đức Thế Tôn,

hành là vô thường.

Vật chi vô thường

vật ấy khổ hay vui?.

Bạch đức Thế Tôn,

vật ấy là khổ.

 

Vật chi vô thường là khổ,

có sự biến đổi theo lẽ thường,

thì nên cho vật đó là của ta,

đó là ta, đó là thân ta chăng?.

Bạch đức Thế Tôn, chẳng nên.

 

Nầy các Tỳ khưu!

Các ngươi cho Thức

là thường hay vô thường?

Bạch Đức Thế Tôn,

thức là vô thường.

Vật chi vô thường

vật ấy khổ hay vui?.

Bạch đức Thế Tôn,

vật ấy là khổ.

 

Vật chi vô thường là khổ,

có sự biến đổi theo lẽ thường,

thì nên cho vật đó là của ta,

đó là ta, đó là thân ta chăng?.

Bạch đức Thế Tôn, chẳng nên.

 

Nầy các Tỳ khưu!

Cho nên,

Sắc nào dầu trong đời quá khứ,

vị lai, hiện tại, bên trong,

bên ngoài, thô thiển, vi tế,

hèn hạ hoặc quí cao.

 

Sắc nào xa hoặc gần,

các sắc ấy đều chỉ là sắc thôi.

Các ngươi nên xem sắc ấy

bằng Trí tuệ trong sạch

theo chân lý như vầy:

Đó chẳng phải là của ta,

đó chẳng phải là ta,

đó chẳng phải là thân ta.

 

Thọ nào trong đời quá khứ,

vị lai, hiện tại, bên trong,

bên ngoài, thô thiển, vi tế,

hèn hạ hoặc quí cao.

Thọ nào xa hoặc gần,

các thọ ấy đều chỉ là thọ thôi.

 

Các ngươi nên xem thọ ấy

bằng Trí tuệ trong sạch

theo chân lý như vầy:

Đó chẳng phải là của ta,

đó chẳng phải là ta,

đó chẳng phải là thân ta.

 

Tưởng nào trong đời quá khứ,

vị lai, hiện tại, bên trong,

bên ngoài, thô thiển, vi tế,

hèn hạ hoặc quí cao.

Tưởng nào xa hoặc gần,

các tưởng ấy đều chỉ là tưởng thôi.

Các ngươi nên xem tưởng ấy

bằng Trí tuệ trong sạch

theo chân lý như vầy:

Đó chẳng phải là của ta,

đó chẳng phải là ta,

đó chẳng phải là thân ta.

Hành nào trong đời quá khứ,

vị lai, hiện tại, bên trong,

bên ngoài, thô thiển, vi tế,

hèn hạ hoặc quí cao.

Hành nào xa hoặc gần,

các hành ấy đều chỉ là hành thôi.

 

Các ngươi nên xem hành ấy

bằng Trí tuệ trong sạch

theo chân lý như vầy:

Đó chẳng phải là của ta,

đó chẳng phải là ta,

đó chẳng phải là thân ta.

 

Thức nào trong đời quá khứ,

vị lai, hiện tại, bên trong,

bên ngoài, thô thiển, vi tế,

hèn hạ hoặc quý cao.

Thức nào xa hoặc gần,

các thức ấy đều chỉ là thức thôi.

 

Các ngươi nên xem thức ấy

bằng Trí tuệ trong sạch

theo chân lý như vầy:

Đó chẳng phải là của ta,

đó chẳng phải là ta,

đó chẳng phải là thân ta.

 

Nầy các Tỳ khưu!

Các bậc Thinh Văn

được nghe và thấy như thế rồi,

các ngài chán nản trong sắc,

chán nản trong thọ,

chán nản trong tưởng,

chán nản trong hành,

và chán nản trong thức.

Khi đã chán nản như thế,

thì được lánh xa tình dục

tâm được giải thoát.

 

Khi tâm được giải thoát,

trí tuệ của bậc Thinh Văn

phát sanh rõ rệt,

mà biết rằng tâm của ta

đã giải thoát rồi.

Các bậc Thinh Văn cũng biết rõ rằng:

Sự sanh của ta đã chấm dứt,

Pháp cao thượng ta đã đắc rồi,

phận sự nên hành,

ta cũng đã hành rồi,

Đức Phật đã giảng giải dứt kinh nầy.

Năm Tỳ khưu nghe được khẩu truyền

của đức Thế Tôn lấy làm hoan hỷ.

Khi Đức Phật đang giảng kinh nầy,

thì tâm của năm Tỳ khưu

được giải thoát các vi tế phiền não,

không còn chấp thủ nữa.

 

KINH HỒI HƯỚNG CHƯ THIÊN

 

Chư Thiên ngự trên hư không,

Địa cầu thượng ngự rõ thông mọi điều.

Long vương thần lực có nhiều,

Đồng xin hoan hỷ phước đều chúng tôi.

Hộ trì Phật giáo tăng bồi,

Các bậc Thầy tổ an vui lâu dài.

Quyến thuộc tránh khỏi nạn tai,

Chúng sanh được hưởng phước dài bền lâu.

Chúng tôi vui thú đạo mầu,

Tu hành tinh tấn ngõ hầu siêu sanh.

 

NĂM ĐIỀU QUÁN TƯỞNG

 

Thế Tôn lời dạy tỏ tường

Năm điều quán tưởng phải thường xét ra

Ta đây phải có sự già

Thế nào tránh thoát lúc hoa canh tàn.

Ta đây bệnh tật phải mang

Thế nào tránh thoát đặng an mạnh lành

Ta đây sự chết sẳn dành

Thế nào tránh thoát tử sanh đến kỳ.

Ta đây phải chịu phân ly

Nhân vật quí mến ta đi biệt mà

Ta đi với nghiệp của ta

Dầu cho tốt xấu tạo ra tự mình.

Theo ta như bóng theo hình

Ta thọ quả báo phân minh kết thành .

 

KINH HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC

 

Phước căn con đã tạo thành,

Do thân, khẩu, ý tu hành gieo nên.

Ðều là phước báu vững bền,

Có thể tiếp chúng độ lên thiên đàng.

Cung trời Ðao Lợi thọ nhàn,

Chúng sanh hữu tưởng nhân gian Ta bà.

 

Chư Thiên Phạm Thiên cùng là,

Bậc trời vô tưởng được mà hưởng an.

Phước con hồi hướng dâng ban,

Chúng sanh hay biết hoàn toàn lãnh thâu.

Bằng ai chưa rõ lời cầu,

Xin cùng Thiên chúng đến hầu mách ngay.

 

Có người làm phước được rày,

Lại đem hồi hướng, hiện nay khắp cùng.

Chúng sanh hoan hỷ lãnh chung,

Hưởng được phước quí ung dung thanh nhàn.

 

Chúng sanh thế giới các hàng,

Bởi nhờ thọ thực sanh an mạng trường.

Xin thâu phước báu cúng dường,

Hóa thành thực phẩm mùi hương thỏa lòng.

 

HỒI HƯỚNG CHO NGƯỜI QUÁ VÃNG

 

Con xin hồi hướng quả này,

Thấu đến quyến thuộc nơi đây cho tường;

Cùng là thân thích tha phương,

Hoặc đã quá vãng hoặc thường hiện nay;

 

Chúng sanh ba giới bốn loài,

Vô tưởng hữu tưởng chẳng nài đâu đâu;

Nghe lời thành thật thỉnh cầu,

Xin mau tựu hội lãnh thâu quả này;

 

Bằng ai xa cách chưa hay,

Cầu xin Thiên chúng mách ngay với cùng;

Thảy đều thọ lãnh hưởng chung,

Dứt rồi tội lỗi thoát vòng nạn tai;

 

Nguyện nhiều Tăng chúng đức tài

Ðạt thành Thánh quả hoằng khai đạo lành;

Nguyện cho Phật Pháp thạnh hành.

Năm ngàn năm chẵn phước lành thế gian.

 

 

 

THẬP NGUYỆN

 

Nguyện cầu Tam Bảo từ hằng độ,

Nguyện thoát ba tai nước, lửa, binh,

Nguyện thảy chúng sanh khỏi oan kết,

Nguyện cho nhân loại ráng tu hành

Nguyện gìn tam học Giới - Ðịnh - Tuệ

 

Nguyện đoạn Tham - Sân - Si độc sanh

Nguyện giải căn nhân Sanh Tử khổ

Nguyện diệt tâm tham háo lợi danh

Nguyện tu tinh tấn không giải đãi

Nguyện sao đạo quả sớm viên thành.

 

PHỤC NGUYỆN

 

Phước lành Con đã tạo ra

Các đời quá khứ hay là đời nay

Nghiệp chưa cho quả phước nào

Nguyện thành Pháp Ðộ để vào thiện căn

 

Sau này dù tạo mấy lần

Từ đây cho đến siêu thăng Niết Bàn

Hễ làm chuyện tốt sẵn sàng

Mỗi điều hạnh phúc thành đoàn nhân duyên

 

Giúp cho phiền não sớm yên

Trợ mau giải thoát kế liền kiếp sau

Nếu trể chẳng gặp Phật nào

Nhằm kỳ Ðộc Giác làm sao cũng thành.

 

KỆ SÁM HỐI PHỤ MẪU

 

Cúi đầu kính lạy mẹ cha

Ngưỡng mong mở lượng hải hà bao dung

Tội con bất hiếu muôn ngàn

Ấu thơ cho đến thành nhân vẫn còn

 

Một đời tần tảo lo toan

Gian truân bao độ lòng son chẳng sờn

Bút nào tả hết yêu thương

Lời nào nói đủ đoạn trường gian lao

 

Tóc xanh cho đến bạc màu

Vì con tất cả nghĩ đâu phần mình

Phật xưa rằng đấng sinh thành

Là trời Phạm Đế đức lành bao la

 

Thiên thần ngự trị trong nhà

Cổ nhân thánh đức chói lòa ngàn sau

Bậc thầy tiên khởi thanh cao

Dạy con từng bước đi vào lớn khôn

 

Dù hai vai cõng song đường

Trăm năm chưa đủ đáp ơn sâu dày

Con từ thơ dại đến nay

Xét ra lỗi đạo lầm sai lắm điều

 

Những mong mình được nuông chiều

Biết đâu cha mẹ bao nhiêu ưu phiền

Lời răn của đấng từ nghiêm

Ít khi tạc dạ trọn niềm kính tin

 

Ấm no chỉ biết phần mình

Mẹ cha mòn mỏi chút tình đợi mong

Tình cha nghĩa mẹ biển đông

Tình con đáp lại giọt sương đầu cành

 

Nhớ công giáo dưỡng sanh thành

Sáu thời cung dưỡng ba canh phụng thờ

Từ nay cho đến trọn đời

Sống theo hiếu đạo nương nhờ Phật ân.

Ngưỡng cầu minh chứng lòng con

Nghiêng mình kính lễ sắt son một niềm

Cầu cha mẹ trọn phước duyên

Nghiêng mình kính lễ vô biên nguyện cầu.

Nguyện đem hiếu đạo làm đầu

Nghiêng mình kính lễ ân sâu đáp đền.

 

BÀI NGUYỆN CẦU

 

Nguyện cho chúng con được an vui thoát khổ,

khi còn luân hồi trong cảnh nào,

xin cho được gặp Phật Pháp Tăng,

tinh tấn tu hành cho mau chứng đắc,

được chánh pháp của chư Phật,

Thánh nhân đã đắc;

khi chưa đắc được Thánh Pháp,

nếu còn sanh lại cõi này,

kiếp nào cũng xin cho được chánh kiến,

tu hành bất thối.

 

Nguyện cho chúng con luôn có trí tuệ,

nhận thấy rõ sự vô thường, khổ não, vô ngã;

có một đức tín dũng mạnh,

sớm mau chứng ngộ đạo,

của giải thoát trong ngày vị lai.

 

Nguyện cho chúng con

được thành tựu vạn sự như ý nguyện.

 

KINH HỒI HƯỚNG

 

Do sự phước báu mà chúng Con

đã trong sạch làm đây,

xin hồi hướng đến thân bằng

quyến thuộc đã quá vãng,

cầu mong cho các vị ấy

hằng được sự an vui.

 

Do sự phước báu mà chúng Con

đã trong sạch làm đây,

xin chia phước đến thân bằng

quyến thuộc còn hiện tại,

cầu mong cho các vị ấy

hằng được sự an vui.

Do sự phước báu mà chúng Con

đã trong sạch làm đây,

hãy là mối duyên lành

để dứt khỏi những điều ô nhiễm,

ngủ ngầm nơi tâm trong ngày vị lai.

 

HỒI HƯỚNG PHƯỚC ĐẾN THÂN BẰNG

QUYẾN THUỘC ĐÃ QUÁ VÃNG

 

Chúng con xin hồi hướng

phần phước thanh cao

mà chúng con đã làm ngày hôm nay,

đến cho tất cả Chư Thiên,

nhân loại, cùng tất cả chúng sanh,

nhất là (Ông, bà, cha, mẹ, con, cháu)

của chúng con,

những bậc ân nhân của chúng con,

cầu mong tất cả đều được an vui hạnh phúc.

 

Xin Chư Thiên mách bảo cho

những thân nhân của chúng con,

và những bậc hữu ân của chúng con,

ở xa không hay biết,

để quý vị ấy biết rằng,

phần phước ngày hôm nay,

dành cho quý vị ấy,

được thọ hưởng tùy ý,

khi thọ hưởng rồi,

được thoát khỏi những điều lao khổ,

kết quả làm người,

làm trời cho được như ý muốn.  

 

“Do nhờ tụng Pháp Bảo này,

xin cho được thành tựu phước thiện,

và trí tuệ y như ý nguyện”

 

‘‘Sādhu !’ ‘Sādhu !’ ‘Sādhu’ ! ’ ‘Lành thay’’ !