Trong giáo lý của đạo Phật, có một pháp môn tu tập khá quen thuộc, có
thể làm giúp lắng sạch nội tâm và điều trị được các chứng bệnh khác nhau của
tâm thức như căng thẳng bất an hoặc phiền muộn khổ não, khiến cho tâm trở nên
trong sáng, hân hoan, thanh thản, an lạc. Đó là pháp môn niệm Phật hay phương
pháp nghĩ nhớ về Phật: “Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Phật: “Đây là Thế
Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn”. Do vị ấy niệm Phật,
tâm được tịnh tín, hân hoan khởi lên, các phiền não của tâm được đoạn tận” (1).
Niệm (sati/anussati/anussarana) tức là nghĩ nhớ, ức niệm, suy tưởng,
chú tâm quan sát hay hướng tâm đến một đối tượng nào đó thuộc tâm thức và giữ
cho đối tượng đó luôn luôn sinh động ở trong tâm, theo đó tâm được an trú, định
tĩng và sáng suốt. Đây là phép luyện tâm trong đạo Phật, có khả năng chuyển đổi
tâm thức từ tán loạn sang định tĩnh, từ cấu uế sang thanh tịnh, từ xáu ác sang
hiền thiện, hoặc có khả năng chuyển hóa cái nhìn từ u ám đến sáng suốt, từ mê lầm
sang giác ngộ.Thông thường, niệm hay chú tâm trên đối tượng có hai tác dụng. Thứ
nhất, giữ cho tâm định tĩnh, an trú, chuyên nhất trên đối tượng, không để tâm
dao động tán loạn, nhảy từ đối tượng này sang đối tượng khác. Thuật ngữ đạo Phật
gọi trạng thái như vậy là tịnh chỉ (samatha), có khả năng đem lại cho người thực
hành các kinh nghiệm hỷ lạc sâu lắng và nội tâm an tịnh. Thứ hai, khiến cho tâm
trở nên tỉnh giác sáng suốt, nhận biết rõ ràng và sâu sắc bản chất của đối tượng.
Phật học gọi trạng thái như vậy là tuệ quán (vipassanà), có khả năng giúp cho
hành giả thành tựu tuệ giác, hướng đến mục tiêu giải thoát khổ đau. Từ định
nghĩa trên về phép quán niệm, đạo Phật đề xuất nhiều đối tượng quán niệm khác
nhau, cốt yếu giúp cho người thực hành tìm thấy phương pháp thích hợp để luyện
tập tâm trí trở nên định tĩnh, trong sáng và thanh tịnh. Niệm Phật hay chú tâm
trên các đức tính của Phật là một trong số các phương pháp quán niệm mang ý
nghĩa luyện tâm như vậy.
Thông thường, chúng ta sống hàng ngày với cái tâm đổ đầy ký ức và dự
tính, không còn chỗ trống cho một niệm nghỉ ngơi. Chúng ta hết truy tìm quá khứ
lại mơ tưởng tương lai và do vậy chúng ta luôn cảm thấy căng thẳng bất an hoặc
lo âu phiền muộn, không có được một giây phút thật sự an lạc. Chúng ta không được
an lạc vì tâm chúng ta không đứng yên một chỗ. Nó hết bị ám ảnh bởi ký ức quá
khứ lại bị thôi thúc bởi ý tưởng tương lai và do vậy nó không an trú trong hiện
tại. Nó đang bị dục vọng lôi cuốn, làm cho quay cuồng, căng thẳng và mệt mỏi ở
trong thế giới của những cảm xúc bấn loạn hoặc vui buồn hoặc yêu ghét. Nói cách
khác, tâm của chúng ta đang bị uế nhiễm bởi các tạp niệm, tức các ký ức hay vọng
tưởng không ngừng xâm chiếm khiến cho tâm trở nên dao động quay cuồng, rơi vào
vòng xoáy của tư duy nhị nguyên phân biệt, tạo nên các phản ứng tâm lý hoặc vui
buồn hoặc yêu ghét. Vui hay buồn, yêu hay ghét là các trạg thái dao động ô nhiễm
của tâm thức, phát sinh cơ bản do tạp niệm hay bởi tâm phân biệt vọng tưởng. Niệm
Phật hay nghĩ nhớ về Phật, do đó, là phương cách đưa tâm về với hiện tại, khiến
cho tâm an trú trên các đức tính cao quý của Phật hay khiến cho toàn bộ tâm thức
được đổ đầy và thấm nhuần Phật chất, không có chỗ trống cho các tạp niệm hay vọng
tưởng xen vào làm cho tâm trở nên quay cuồng hay ô nhiễm.
Như vậy, niệm Phật có công năng làm lắng sạch tâm cấu uế nhờ chuyên tâm
nghĩ nhớ về Phật hay nhờ an trú trên các đức tính thánh thiện của Phật. Nói
khác đi, do tâm không rời Phật mà các vọng tưởng hay tạp niệm không có cơ hội
xâm nhập làm cho tâm ô uế. Đây là phương pháp giữ cho tâm định tĩnh, trong
sáng, thanh tịnh, không để cho các tạp niệm hay vọng tưởng sinh khởi, xâm nhập
làm ô uế tâm thức. Theo cách như vậy, hành giả tu học Phật pháp cũng có thể chọn
một đối tượng hiền thiện khác để quán niệm chẳng hạn, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm
Giới, niệm Thí, niệm chư Thiên… Nhờ chuyên tâm, chú tâm trên các đối tượng hiền
thiện như vậy mà tâm được an trú, định tĩnh, trong sáng, không còn bị ô nhiễm bởi
các tạp niệm hay niệm bất thiện. Nói cách khác, nhờ chuyên tâm nghĩ nhớ hay suy
nghĩ về điều lành thiện mà các niệm ác hay các ý tưởng điên đảo được đẩy lùi;
hành giả cảm thấy lòng mình được tịnh tín, hân hoan, không còn lo âu phiền não.
Kinh văn truyền thống gọi pháp môn tu tập như vậy là “sự gột sạch tâm uế nhiễm
bằng phương pháp thích nghi” (2), nghĩa là nỗ lực dùng niệm thiện đánh bật niệm
bất thiện hay các ý tưởng điên đảo ra khỏi tâm thức, khiến cho tâm không còn
phiền não nhiễm ô, tựa như người thợ mộc dùng cái nêm nhỏ đánh bật ra, đánh
văng ra một cái nêm khác vậy. Trong bài thuyết giảng cho vị tín nữ Visàkhà, Đức
Phật nêu rõ một số phương pháp giúp gột sạch tâm uế nhiễm và xác nhận kết quả lợi
lạc của pháp môn niệm Phật hay phương pháp vận dụng niệm thiện để đối trị và loại
bỏ niệm bất thiện:
“Này Visàkhà, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp
thích nghi?
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Phật: “Đây là Thế Tôn, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng
Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn ”. Do vị ấy niệm Phật,
tâm được tịnh tín, hân hoan khởi lên, các phiền não của tâm được đoạn tận”. Như
vậy, này Visàkhà, là tân uế nhiễm được gột sạch với phương pháp thích nghi.
Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp
thích nghi?
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Pháp: “Pháp được Thế Tôn khéo thuyết
giảng, thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng
thượng, được người trí tự mình giác hiểu”. Do vị ấy niệm Pháp, tâm được tịnh
tín, hân hoan khởi lên, các phiền não của tâm được đoạn tận.
Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp
thích nghi?
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Tăng: “Diệu hạnh là chúng đệ tử Thế
Tôn; trực hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; ứng lý hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; chơn
chánh hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn, tức là bốn đôi tám chúng. Chúng đệ tử Thế
Tôn là đáng cung kính, đáng tôn trọng, đáng cúng dường, đáng được chắp tay, là
phước điền vô thượng ở đời”. Do vị ấy niệm Tăng, tâm được tịnh tín, hân hoan khởi
lên, các phiền não của tâm được đoạn tận.
Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp
thích nghi?
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Giới: “Giới không bị phá hoại,
không bị đâm cắt, không bị nhiễm ô, không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát, được
người trí tán thánh, không bị chấp thủ, đưa đến thiền định”. vị ấy niệm Giới,
tâm được tịnh tín, hân hoan khởi lên, các phiền não của tâm được đoạn tận.
Và này Visàkhà, thế nào là tâm uế nhiễm được gột sạch với phương pháp
thích nghi?
Ở đây, này Visàkhà, Thánh đệ tử niệm Thiên: “Có chư Thiên bốn Thiên
Vương; có chư Thiên cõi Trời Ba mươi ba; có chư Thiên Yàmà; có chư Thiên Tusita
(Đâu suất); có chư Thiên Hóa lạc; có chư Thiên Tha hóa tự tại; có chư Thiên Phạm
chúng; có chư Thiên cao hơn nữa. Đầy đủ
với lòng tin như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ
kia. Lòng tin như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Đầy đủ với giới như vậy, chư Thiên
ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Giới như vậy cũng có đầy đủ
nơi ta. Đầy đủ với nghe pháp như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được
sanh tại chỗ kia. Nghe pháp như vậy cũng
có đầy đủ nơi ta. Đầy đủ với thí như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này,
được sanh tại chỗ kia. Thí như vậy cũng có đầy đủ nơi ta. Đầy đủ với tuệ như vậy,
chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Tuệ như vậy cũng
có đầy đủ nơi ta. Khi vị ấy niệm tín, giới, nghe pháp, thí và tuệ của tự mình
và của chư Thiên ấy, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của
tâm được đoạn tận” (3).
Nhìn chung, niệm Phật, niệm Pháp, hay niệm Tăng…là pháp môn tu tâm
tương đối dễ hành trì đối với mọi người. Nó đơn giản là dùng một đối tượng hiền
thiện để quán niệm, để nhiếp tâm, an trú tâm, khiến cho tâm trở nên chuyên chú,
định tĩnh, trong sáng, không tán loạn, không còn bị quay cuồng hay uế nhiễm bởi
dục vọng, bởi các niệm bất thiện hay bởi tạp niệm. Kinh Pháp Cú nói rằng:
Tâm hoảng hốt, dao động,
Theo các dục quay cuồng;
Lành thay điều phục tâm,
Tâm điều, an lạc đến (4).
Quán niệm là một cách điều tâm, khiến cho tâm được tịnh tín, an trú, định
tĩnh, trong sáng, không còn hoảng hốt, dao động, mê loạn, quay cuồng theo các dục.
Do đó, quán niệm được an lạc là vậy.
Chú Thích
1. Kinh Các Lễ Uposatha, Tăng Chi Bộ
2. Kinh An Trú Tầm, Trung Bộ
3. Kinh Các Lễ Uposatha, Tăng Chi Bộ
4.Pháp Cú, kệ số 35
Quảng Tâm | Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 124