Kinh Pháp Cú, kệ số 163 ghi lời Đức
Phật nhận xét về một thực trạng rất đáng cho mọi người suy nghĩ:
“Dễ làm các điều ác
Dễ làm điều tự hại;
Còn việc lành việc tốt,
Thật tối thượng khó làm”.
Bài kệ nói cho chúng ta biết giữa hai lẽ thiện và ác, điều thiện thật
khó theo mà việc ác thì dễ mắc phải. Đây là nhận xét tinh tế của Đức Phật về
khuynh hướng tâm lý khá phổ biến của chúng sinh, cốt yếu nhắc nhở chúng ta phải
hết sức cẩn thận trong cuộc sống để tránh rơi vào các việc ác và để nỗ lực làm
các việc lành.
Vì sao Phật quan tâm nhắc nhở như vậy? Vì Phật hiểu và thương chúng
sinh; do tập khí tham sân si và nghiệp chướng còn nặng nề nên chúng sinh dễ bị
lôi cuốn vào con đường ác, khó theo con đường lành. Một lẽ khác là lý do tâm lý
khá nông nổi hời hợt của chúng sinh, ít quan tâm xem xét cân nhắc về lẽ thiện
ác, không thấy rõ sự nguy hại của điều ác và không nhận ra lợi ích của điều thiện,
nên dễ rơi vào con đường ác, bỏ qua con đường lành. Đây cũng có thể xem là tâm
lý khá phổ biến của chúng ta ngày nay, hệ quả của lối tư duy chủ quan hời hợt,
xem nhẹ đạo lý, không tin nhân quả, bỏ quên hướng giáo dục uốn nắn nội tâm, hậu
quả là việc xấu việc ác cứ tiếp tục diễn ra khá thường xuyên và rộng khắp trong
đời sống xã hội. Khi con người không tìm thấy đạo lý cao thượng nào để theo
và khi pháp luật đang còn trong phạm vi
tranh luận hoặc không được thực thi đúng thì việc khắc phục tình trạng xấu ác xảy
ra trong đời sống cộng đồng là điều rất khó. Chúng ta đang cố gắng hoàn thiện hệ
thống pháp luật; trông chờ nhiều ở trách nhiệm thực thi và chấp hành pháp luật
của mọi người như là biện pháp cải thiện các tiêu cực xã hội. Như luật pháp xã
hội cũng chỉ có tính cách hạn chế, răn đe và ngăn chận các biến tướng hay hiện
tượng xấu ác phát sinh, còn gốc rễ của cái xấu ác ( tâm ý xấu ác hay tư tưởng bất
chánh) thì không thể ngăn chữa được vì
nó không thuộc phạm vi quản lý và thực thi của pháp luật. Không ai biết được
người khác suy nghĩ gì trong khi đang thuyết trình hùng hồn về lẽ sống đạo đức.
Để giúp cho việc khắc phục và dứt trừ điều ác có hiệu quả, Đức Phật đề
xuất rất nhiều biện pháp khác nhau, cốt yếu lưu nhắc nhở mọi người phải chú tâm
xem xét, cân nhắc, nhận rõ tính chất xấu xa nguy hại của các việc ác để kiên
quyết từ bỏ. Phải chú tâm xem xét, phản tỉnh và thực tập đúng cách và lâu bền
thì cái ác mới được kiểm soát và đẩy lùi. Chẳng hạn, Ngài dạy chúng ta phải biết
sinh tâm sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt, phải biết quay về xem xét nơi bản thân
mình, cân nhắc chin chắn mọi hành vi và việc làm của mình, trước khi làm, trong
khi làm và sau khi làm, xem chúng là thiện hay ác để thực hiện hoặc từ bỏ; nếu là thiện thì nên
hoan hỷ tinh tấn làm them, nếu là ác thì cần phải sinh tâm xấu hổ sợ hãi mà chừa
bỏ ngay. Hoặc phải suy nghĩ tìm xem động cơ sâu kín nào thôi thúc xúi giục ta
làm điều xấu ác để tập trung loại bỏ cái động cơ gốc rễ ấy, phải biết xấu hổ tự
trách mắng mình và lo lắng sợ hãi người khác sẽ chỉ trích mình về việc vi phạm
điều xấu ác, phải biết sợ hãi về quả báo tái sinh khổ đau của việc làm ác, phải
thấy rõ sự trói buộc nguy hại khổ đau của ác nghiệp và nhận ra sự tự do lợi lạc
của việc từ bỏ ác nghiệp…Tất cả điều này cho thấy Đức Phật hiểu rất rõ căn
nguyên khó đoạn trừ của tệ xấu ác và do vậy các giải pháp do Ngài đề xuất là
tuyệt đối căn bản và thiết yếu cho việc loại trừ hoàn toàn mọi mầm mống và nguy
cơ của lối sống sai lầm xấu ác. Sau đây chúng ta nhẩm đọc và suy ngẫm lại những
lời dạy hết sức căn bản của Đức Phật, cốt yếu nhấn mạnh về phương pháp hay cách
thức dứt trừ gốc rễ các điều ác.
“Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:
“Do nhơn những kiết sử nào ta có
thể sát sanh, ta đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ của các kiết sử ấy. Nếu ta sát
sanh, không những ta tự trách mắng ta vì duyên sát sanh, các bậc có trí, sau khi
tìm hiểu, cũng sẽ khiển trách ta vì duyên sát sanh; và sau khi thân hoại mạng
chung, ác thú sẽ chờ đợi ta, vì duyên
sát sanh. Thật là một kiết sử, Thật là một triền cái, chính sự sát sanh này. Những
lậu hoặc phiền lao nhiệt não nào có thể khởi lên do duyên sát sanh, đối với vị
đã từ bỏ sát sanh, những lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa”.
Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:
“Do nhơn những kiết sử nào ta có thể lấy của không cho, ta đoạn tận,
thành tựu sự từ bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta lấy của không cho, không những ta tự
trách mắng ta vì duyên lấy của không cho, các bậc có trí, sau khi tìm hiểu,
cũng sẽ khiễn trách ta vì duyên lấy của không cho; và sau khi thân hoại mạng chung,
ác thú sẽ chờ đợi ta, vì duyên lấy của không cho, thật là một kiết sử, thật là
một triền cái, chính sự lấy của không cho này. Những lậu hoặc phiền lao nhiệt
não nào có thể khởi lên do duyên lấy của không cho đối với vị đã từ bỏ lấy của
không cho , những lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa”.
Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau (1):
“Do nhơn những kiết sử nào ta có
thể nói láo, ta đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta nói láo,
không những ta tự trách mắng ta vì duyên nói láo, các bậc có trí, sau khi tìm
hiểu, cũng sẽ khiển trách ta vì duyên nói láo; và sau khi thân hoại mạng chung,
ác thú sẽ chờ đợi ta, vì duyên nói láo. Thật là một kiết sử, thật là một triền
cái, chính việc nói láo này. Những lậu hoặc phiền lao nhiệt não có thể khởi lên
do duyên nói láo, đối với vị đã từ bỏ nói láo, những lậu hoặc phiền lao nhiệt
não như vậy không còn nữa”.
Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:
“Do nhơn những kiết sử nào ta có thể nói hai lưỡi, ta đoạn tận, thành tựu
sự từ bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta nói hia lưỡi, không những ta tự trách mắng ta
vì duyên nói hai lưỡi, các bậc có trí, sau khi tìm hiểu, cũng sẽ khiển tráchta
vì duyên nói hai lưỡi; và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú sẽ chờ đợi ta vì
duyên nói hai lưỡi. Thật nlà một kiết sử, thật là một triền cái, chính sự nói
hai lưỡi này. Những lậu hoặc phiền lao nhiệt não có thể khởi lên do duyên nói
hai lưỡi, đối với vị đã từ bỏ nói hai lưỡi, những lậu hoặc phiền lao nhiệt não
như vậy không còn nữa”.
Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:”Do nhơn những kiết
sử nào ta có thể có tham dục, ta đọan tận, thành tựu sự từ bỏ các kiết sự ấy. Nếu
ta tham dục, không những ta tự trách mắng ta vì duyên tham dục, các bậc có trí,
sau khi tìm hiểu, cũng sẽ khiển trách ta vì duyên tham dục; và sau khi thân hoại
mạng chung, ác thú sẽ chờ đợi ta vì duyên tham dục. Thật là một kiết sự, thật
là một triền cái, chính sự tham dục này. những lậu hoặc phiền lao nhiệt não có
thể khởi lên do duyên tham dục, đối với vị đã từ bỏ tham dục, các lậu hoặc phiền
lao nhiệt não như vậy không còn nữa”.
Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:
“Do nhơn những kiết sử nào ta có thể hủy báng sân hận, ta đoạn tận,
thành tựu sự từ bỏ các kiết sử ấy.Nếu ta hủy bang sân hận, không những ta tự
trách mắng ta vì duyên hủy báng sân hận
, các bậc có trí, sau khi tìm hiểu, cũng sẽ khiển trách ta vì duyên hủy báng sân hận; và sau khi thân hoại
mạng chung, ác thú sẽ chờ đợi ta vì duyên hủy bang sân hận, thật là một kiết sử,
thật là một triền cái chính sự hủy báng sân hận này. Những lậu hoặc phiền lao
nhiệt não có thể khởi lên do duyên hủy báng sân hận, đối với vị đã từ bỏ hủy
báng sân hận, các lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa”.
Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:
“Do nhơn những kiết sự nào ta có thể có phẫn não, ta đoạn tận, thành tựu
sự từ bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta có phẫn não, không những ta tự trách mắng ta vì
duyên phẫn não, các bậc có trí, sau khi tìm hiểu, cũng sẽ khiển trách ta vì
duyên phẫn não; và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú sẽ chờ đợi ta vì duyên
phẫn não. Thật là một kiết sử, thật là một triền cái, chính sự phẫn não này. Những
lậu hoặc phiền lao nhiệt não có thể khởi lên do duyên phẫn não, đối với vị đã từ
bỏ phẫn não, các lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa”.
Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:
“Do nhơn những kiết sử nào ta có quá mạn, ta đoạn tận, thành tựu sự từ
bỏ các kiết sử (2) ấy. Nếu ta có quá mạn, không những ta tự trách mắng ta vì
duyên quá mạn, các bậc có trí, sau khi tìm hiểu, cũng sẽ khiển trách ta vì
duyên quá mạn; và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú sẽ chờ đợi ta vì duyên
quá mạn, thật là một kiết sử, thật là một triền cái (3), chính sự quá mạn này.
Những lậu hoặc phiền lao nhiệt não có thể khởi lên do duyên quá mạn, đối với vị
đã từ bỏ quá mạn, các lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa”.
Chú Thích:
1.Kinh Potaliya, Trung Bộ.
2.Kiết sử: động cơ hay động lực bó buộc, thúc ép, sai sử người ta nghĩ,
nói hay làm những gì khiến khổ đau phát sinh.
3.Triền cái: những gì giam hãm ngăn che tâm trí của con người, khiến
tâm trí trở nên mê mờ, u ám, điên đảo.
Đồng Thanh | Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo số 120 |