Trong đạo Phật chúng ta thường nghe nói đến trí tuệ và từ
bi. Vậy trí tuệ là gì, từ bi là gì? Người sống như thế nào là sống vớiù trí tuệ
và người hành xử như thế nào là người từ bi ?
Đạo Phật là đạo giác ngộ; giác ngộ là thấy đúng lẽ thật. Người
thấy đúng lẽ thật không thể thiếu trí tuệ được. Vì vậy mà tất cả chúng ta, nhất
là người tu Phật phải lấy trí tuệ làm nền tảng.Ở đây tôi chia trí tuệ ra làm
hai loại : Trí thế gian và trí xuất thế gian.Trước hết tôi nói về trí thế gian
theo tinh thần Phật pháp. Trí thế gian trong Phật pháp là thấy biết đúng tinh
thần nhân qủa. Người tu Phật khi làm việc gì phải thấy rõ nguyên nhân và hậu qủa
của nó. Người thấy rõ nhân và qủa không lầm là người co trí tuệ. Trong kinh có
nói : “Bồ Tát sợ nhân chúng sanh sợ qủa”. Bồ Tát là hữu tình giác, một chúng
sanh giác ngộ là chúng sanh đó biết sợ nhân ác, chúng sanh mê muội thì sợ qủa
khổ. Cũng sợ vậy, mà hai cái sợ khác nhau, người sợ nhân gọi là giác, người sợ
qủa gọi là mê.Trí tuệ của người học đạo tuy là trí thế gian,nhưng cũng là trí
tuệ của Bồ Tát. Người biết rõ mỗi hành động mỗi lời nói mỗi ý nghĩ là cái nhân
đưa tới đau khổ,thì tránh không làm không nói và không nghĩ. Đó là người biết sống
bằng trí tuệ. Nếu nghĩ nói làm không biết kết qủa ra sao, cứ nói làm càng bướng,
khi kết qủa khổ đau đến thì than khóc, cầu Trời khẩn Phật cứu, đó là cái si mê
của chúng sanh. Hiện tại chúng ta sống với trí tuệ hay sống với si mê ?
Tôi đơn cử vài việc rất nhỏ mọn trong đời sống là ăn uống. Mục
đích của sự ăn uống là để nuôi dưỡng mạng sống được khỏe mạnh lâu dài. Như vậy,
ăn uống là cái nhân, nuôi dưởng mạng sống được khỏe mạnh lâu dài là cái qủa.
Nhưng,có người ăn uống những thứ phá hoại mạng sống, vậy người đó là người trí
hay người mê ? Chẳng hạn như uống rượu, rưởu làm đau bao tử, zơ gan, viêm phế
quản ... mà người ta vẫn cứ uống. Những món ăn không hợp với bệnh, ăn vào là bệnh
phát mà người ta vẫn cứ ăn. Khi bệnh phát nặng lo sợ cầu thầy kiếm thuốc, mà
cái nhơn gây ra đau bệnh thì không tránh. Đó là người mê nên gọi là phàm phu thế
gian. Người có trí biết cái gì ăn vào làm bại hoại mạng sống, làm cho cơ thể
đau bệnh thì không ăn. Món ăn nào giúp cho cơ thể tráng kiện, làm cho mạng sống
được lâu dài thì dùng, đó là người trí. Còn hút thuố có lợi cho mạng sống hay
có hại ? Hút tuốc làm cho nám phổi, ung thư phổi... mà người ta vẫn cứ hút. Á
phiện là một loại ma túy làm cho cơ thể con người gầy ốm ốm xanh xao, suy nhược,
bại hoại tột đỉnh, vậy mà người ta vẫn cứ hút. Đó là những người si mê đáo để,tự
phá hoại thân thể mình một cách vô lý và nguy hiểm. Người si mê vừa vừa thì phá
hoại cơ thể vừa vừa, người si mê ít thì phá hoại cơ thể ít. Tai họa cuả rượu, của
thuốc, cuả á phiện hiện tại các nhà y học đã chứng minh cụ thể và khuyên không
nên dùng. Người ta biết hại mà vẫn cứ dùng, thật là đáng thương! Là con người
ai cũng có quyền chọn những thực phẩm tốt làm cho cơ thể khỏe mạnh để dùng, còn
những thứ nào đưa đến bệnh hoạnđau khổ thì tránh. Vì con ngưòi có khỏe mạnh mới
vui tươi, đau yếu thì buồn khổ.
Chúng ta tu Phật là tu theo đạo giác ngộ, những cái gì làm
cho chúng ta đam mê, say đắm, khi thức tỉnh phải gan dạ bỏ liền. Đó là đã tiến
trên đường giác ngộ. Đã tiến trên đường giác ngộ thì khổ đau ở cỏi đời này tuy
chưa hết nhưng cũng đã bớt đi. Ví dụ người ghiền rượu, ghiền thuốc làm mỗi ngày
được 50đ, uống rượu 20đ, hút thuốc 10đ,còn lại 20đ không đủ tiền ăn cơm nên phải
mang nợ. Cả cuộc đời sống trong say sưa thiếu thốn khổ sở vô cùng. Bây giờ biết
uống rượu hút thuốc có hại, gan dạ bỏ không dùng nữa. Tiền lương mỗi ngày chỉ
dùng cho việc ăn uống thì vừa đủ, nên thân khỏe mạnh tâm vui vẻ. Đó là người tự
tỉnh tự giác bằng trí tuệ thế gian.
Lại có những chén thuốc đắng cay, uống vào không ngon miệng
mà người ta lại dùng,vì họ biết món thuốc đó uống vào thì hết bệnh, thân thể khỏe
mạnh, sống lâu. Đó cũng do con người có trí tuệ thế gian biết giảng nhân nào tốt
thì làm, dù khó làm vẫn cố gắng; nhân nào xấu thì tránh, không làm dù có hấp dẫn.
Người sống như vậy là tu, chớ không phải đi chùa thường, lạy hì hụt, khi về nhà cũng rượu thịt say sưa, nói làm sằng
bậy, gây khổ cho mình làm khổ lây cho người; đi chùa lạy phật như thế chưa biết
tu. Qúi vị cứ sống bình thường, mà biết tránh những cái nhân xấu gây đau khổ
cho mình, cno gia đình, cho xã hội, đó là tu.
Người có trí tuệ là người có thái độä dứt khoát, biết điều dở,
nhất định không làm, dù cho có ai khuyến khích rủ ren. Còn người bình thường
phân tích biết điều đó dở mà khi có ai ru cũng chạy theo làm, thì người này
chưa thực có trí, còn mơ màng nửa tỉnh nửa mê; gặp người tỉnh thì tỉnh theo, gặp
người mê thì mê theo. Như vậy, người tu chúng ta phải thực sự tỉnh để tự quyết
định việc làm của mình cho chính chắn tốt đẹp.
Về lời nói ngôn ngữ cũng vậy. Có khi nào mình chưởi mắng người
mà được người thương mến không ? Chắc chắn là không. Tất cả quí vị hiện có mặt ở
đây, có ai muốn cho mọi người ghét mình không ? Chắc chắn là không. Chẳng muốn
người ghét , thì những lời hung ác chê bai chỉ trích... nên nói hay nên dừng ?
Nên dừng.Vì những lời đó làm cho ngưòi nghe khó chịu, họ sẽ sanh tâm oán ghét
người nói. Ở đời nuế bị người oán ghét thì khi mình gặp khổ, họ sẽ chế nhạo hoặc
hãm hại thêm. Còn nếu được người thương mến khi hoạn nạn được người cứu giúp an
ủi. Như vậy có ai dạy khờ gì mà cứ tạo những cái nhơn để cho người oán ghét ? Ở
thế gian này người ta oán ghét nhau bởi cái gì nhiều hơn hết ? Đa số là do cái
miệng. Vậy ngang đây qúi vị nhớ tu cái miệng tức là tu khẩu nghiệp. Mỗi khi nói
ra là phải lựa lời mà nói, lời lành thì nói, lời dữ thì chừa. Như vậy mới đem
an vui lại cho mình cho người. Nếu nói lời dữ thì đau khổ sẽ đến, chớ không
tránh khỏi.
Lại nữa, người cứ lo tụng kinh với Phật, hễ ai chọc tức thì
mắng chưởi không tiếc lời. Như vậy tụng kinh một giờ, chưởi người chừng mười
phút thì phước đức tụng kinh cũng không còn. Để thấy rõ việc tu hành, người trí
biết lời nào nên nói thì nói, lời không nên nói thì dừng, điều tốt nên làm thì
làm, điều quấy ác có hại thì không làm, đó là người giảng trạch được sự thật.
Quí vị chớ nói làm một cách mờ ảo có tính cách huyền bí linh thiêng, mà không
thông lý nhân qủa. Vì đạo Phật chủ trương con người gặp cảnh khổ hay cảnh vui gốc
từ nơi nghiệp lành mà ra. Nói lành làm lành là nghiệp lành, nói hung dữ làm việc
ác là nghiệp ác. Muốn được an vui mà gây nhân ác, đó là mê, thiếu trí tuệ. Thế
nên muốn được an vui là phải tạo nhân lành, an ủi khuyên lơn giúp đỡ mọi người
từ vật chất lẫn tinh thần cho họ được vui vẻ. Người biết sống như thế là người
có trí tuệ thế gian.
Sau đây là trí tuệ xuất thế gian. Trí xuất thế gian là trí
biết đúng như thật, cái nào giả biết nó lá giả, cái nào thật biết nó là thật.
Cái giả cho là thật đó là mê, cái có thật mà không biết cũng là mê, thiếu trí
tuệ. Thế nên, cái giả biết rõ là giả, cái thật biết nó là thật, đó là người
trí, mà là trí xuất thế gian. Trí này có khả năng thấy suốt được lẽ thật, nhín
thẳng nơi con người biết cái nào là giả cái nàolà thật không lầm lộn. Thông thường
người đời ai cũng thấy thân này là thật. Nhưng với cái nhìn của người có trí xuất
thế gian thấy như chổ Phật đã chỉ bày :Thân này là tướng nhân duyên hòa hợp,
nhân duyên hội đủ thì thân này tồ tại, nếu thiếu duyên thì nó tan hoại. Bốn thứ
đất, nước gió,lửa hợp lại mà có thân này; những chất cứng như tóc, lông,
răng,xương...thuộc về đất. Những chất lỏng như máu, nước miếng mồ hôi... thuộc
về nước. Hơi ấm thuộc về lửa. Sự máy động, hơi thở... thuộc về gió. Bốn thứ đó
hòa hợp thành thân này, nếu một trong bốn món đó mất đi thì thân tan hoại.Bốn
món đó là bốn yếu tố chính duy trì mạng sống con người. Nhưng bốn món đó lại
xung khắc với nhau; lửa gặp nước thì tắt, đất gặp gió thì rung rinh... Vậy mà bốn
món đó phải họp nhau điều hòa nhau, thì mạng sống con người mới điều hòa an ổn.
Nếu có sự chống trái hay dư thừa hoặc hao hụt thì thân bất an. Chẳng hạn lửa
nhiều thì thân nóng đầu nhức phải dùng thuốc hạ sốt.Lửa ít thì rét rung phải sưởi
ấm, uống thuốc cho tăng nhiệt lượng. Nước nhiều thì phù thủng phải thải nước
ra. Nước ít thì khô khao gầy đét... Gió nhiều thì đau nhức... Cứ như vậy mà biến
động không dừng ở nơi thân. Nếu một trong bốn thứ đó hoặc qúa thiếu hay qúa thừa
thì mạng sống dừng ngay. Chúng ta thấy sự hòa hợp của đất, nước, gió, lửa thật
là tạm bợ, giờ nào nó còn hòa hợp là thân còn, giờ nào nó bất hợp tác thì thân
mất, không có gì bảo đảm cả, chỉ cần một hơi thở ra mà không hít vào thì chết
ngay.đó là cái thấy của người trí về thân thể con người. Ngược lại, ai cho rằng
thân này là thật, chắc bền vĩnh viễn, đó là cái thấy của người mê. Song, không
phải biết thân này tạm bợ để rồi bi quan yếm thế, buồn than cho số phận. Mà, giờ
nào còn thở, còn khỏe mạnh, những điều hay tốt, nên làm ngay, nếu chần chờ khất
hẹn, chết đến sao làm kịp ? Tu cũng vậy, giờ nào còn thở còn hơi ấm thì lo tu,
mai mốt tắt thở làm sao tu kịp ? Biết như vậy để nỗ lực tu, nỗ lực lực làm điều thiện, chớ không phải thấy nó tạm
bợ rồi sống buông xuôi chờ chết, quan niệm như vậy không đúng. Người trí thấy
thân này tạm bợ, không thật, nhờ vậy mà hằng tỉnh giác nỗ lực tu hành. Đó là
giai đoạn thứ nhất thấy thân này giả.
Giai đoạn thứ hai : Thấy thân này là giả và ngay trong cái
giả đó còn có cái chân thật không hình không tướng mà hằng sáng rỡ không hoại,
người trí khéo nhận ra nó và hằng sống với nó. Ví dụ trong nhà giảng này trên
đây là bàn phật có hình tướng, quí vị nói là có; khoảng không gian trống, đa số
người nói là không. Nhưng kỳ thực nó không phải là không. Nếu không thì mọi người
đều chết vì thiếu không khí thở. Khoảng không gian này không có hình tướng thô
như cái bàn, tượng Phật, nhưng có không khí, có bụi bặm... Chỉ vì mắt thường
không thấy được nên cho là không. Vì htế mà phủ nhận những gì quá tầm mắt thấy.
Như vậy, để thấy những cái được cho rằng có là vì có hình tướng thô, còn trong
không gian cũng có những cái tế, mà mắt thường không thể thấy được, chớ không
phải là không. Cũng vậy, thân người phần tứ đại hòa hợp là cái có thô, còn cái
hiểu biết được gọi là tâm là cái có tế. Cái có thô là vật chất, cái có tế là
tinh thần. Tinh thần có thì vật chất có,vật chất có thì tinh thần có,hai cái hỗ
tương nhau nên mới có cuộc sống thế này. Bởi có tinh thần nên khi vật chất hoại
mà tinh thần bất động không hoại. Người thấy cái thật biết đúng như thật, thấy
cái giả biết đúng như giả, đó là người có trí xuất thế gian. Tôi nhắc lại, người
học đạo là phải có trí; trước tiên là phải có trí thế gian hay hữu sư trí, do sự
học hỏi truyền dạy của bậc thầy mà có, để rồi đi tới trí xuất thế gian do sụ tu
hành mà được. Học đạo mà mù tối quá thì không xứng đáng là người học Phật.
Bây giờ nói tới từ bi. Từ bi từ đâu mà có và muốn có phải
làm sao ? Làm thế nào có được tình thương đối với mọi người ? Tình thương và từ
bi có giống nhau không ? Tình thương là tình luyến ái giữa cha mẹ, anh em, vợ
chồng, con cái, bằng hữu... lại có những tình thương không tốt phi đạo lý nữa.
Còn từ bi là thương cao thưọng bất vụ lợi, htưong tất cả mọi loài không vì bản
ngã của mình. Muốùn có tình thương bất vụ lợi đó trước tiên chúng ta phải xét cảnh
khổ của con người.Bài giảng đầu tiên Phật giảng cho năm anh em ngài Kiều Trần
Như tại vườn Lộc Uyển là Tứ Đế. Trong Tứ đế, Khổ đế được nêu lên trước cho mọi
người thấy khổ là một lẽ thật không chối cải được. Mục đích là để cho con người
thoát ra mọi khổ đau. Do thấy khổ đau dày xéo lên kiếp ngườimà khởi lòng từ bi
thương yêu lẫn nhau, cứu giúp cho nhau ra khỏi biển khổ, chớ không phải nói khổ
để mà khóc than cho số phận. Thông thường khi con người cùng ở trong cảnh hoạn
nạn khốn khổ thì dễ thông cảm, dễ thương nhau. Nhưng khi ở trong cảnh giàu
sang, quyền thế, người được địa vị cao kẻ ở địa vị thấp khó thông cảm và thương
yêu nhau. Vì vậy muốn phát khởi lòng thương, việc dễ dàngnhất là thấy rõ nỗi khổ
của nhau thì mới thương yêu nhau. Nếu mọi người thấy rõ thân mình cũng như thân
người do tứ đại hòa hợp mà thành. Khi nó bất hòa thì thân bệnh hoạn, một đại bất
hòa thì sanh một trăm lẽ một bệnh. Nếu bốn đại bất hòa thì sanh bốn trăm lẽ bốn
bệnh. Như vậy thân này là một ổ bệnh, đã là một ổ bệnh thì khổ vô cùng. Có thân
không ai dám nói tôi hoàn toàn không bệnh, không bệnh nặng thì cũng bệnh nhẹ hoặc
bệnh mới phát khởi hoặc bệnh đã khởi lâu, không ai là không bệnh. Để thấy rõ thân
chúng ta là thân bệnh hoạn, người nào cũng có bệnh thì người nào cũng khổ. Tất
cả đều khổ nên thương nhau, giúp đở nhau, an ủi nhau cho bớt khổ. Kiếp người vốn
đã khổ rồi, lại làm cho khổ thêm thì qúa ác. Có nhiều người tuy bên ngoài thân
lành lặng nhưng bên trong có đôi ba chứng bệnh đang hành hạ, khiến họ đau nhức,
rên rỉ hoặc cộc cằn. Nếu họ có lỗi lầm nên tha thứ. Người tu là kẻ từ bi, người
đời đã khổ mà làm khổ thêm là thiếu từ bi, không xứng đáng là người tu Phật.
Thứ nữa, là xét cái si mê của chúng sanh mà khởi tâm từ bi.
Chúng sanh vì si mê nên cái giả không biết là giả cho là thật, và cái thật mình
tự có không biết lại bỏ quên đi. Do tưởng cái giả là thật, nên bị cái giả chi
phối sai sử tảo bao nhiêu nghiệp tội, để rồi đời này mang thân này khổ, đời
khác mang thân khác khổ, cứ mang thân khổ trầm luân trong vòng sanh tử không có
ngày dừng. Chúng ta khi thấy người nào đang ở trong cảmh mê, liền dùng mọi
phương tiện khuyến khích nhắc nhở cho họ tỉnh. Dù họ chưa hoàn toàn tỉnh song
cũng lóe sáng phần nào để bớt mê. Hễ bớt mê là bớt khổ. Đó là lòng từ bi, vì thấy
người mê nên khởi lòng thương xót. Như vậy chúng ta là người học Phật phải có
trí tuệ và từ bi. Từ bi một là thấy chúng sanh khổ mình thương xót, an ủi giúp
đở họ đưọc vui. Hai là thấy người mê cứ gây nghiệp rồi chịu khổ, khổ từ đời này
tới đời nọ không có ngày cùng, nên thương xót dùng phương tiện chỉ dẫn cho họ bớt
mê. Phật dạy thể hiện lòng từ bi không gì hơn là bố thí, ố thí tài tức là giúp
đỡ của cải vật chất cho người nghèo khó bệnh tật. Bố thí pháp là giảng dạy nhắc
nhở cho người hết mê lầm.
Trách nhiệm của người tu là phải tự mình có trí tuệ để giải
khổ cho mình, và xót thương mọi loài đang đau khổ mà giúp cho họ giải khổ. Tự
mình làm sao thoát khỏi những cái dở, những thói quen tật xấu từ lâu đời để
mình hết khổ và giúp cho mọi người hết khổ là tu. Tu bằng trí tuệ và từ bi.
st