Sunday, September 8, 2024

VŨ TRỤ THEO PHẬT HỌC LÀ MỘT KHÁI NIỆM RỘNG LỚN

 

VŨ TRỤ THEO PHẬT HỌC LÀ MỘT KHÁI NIỆM RỘNG LỚN

 

Và phức tạp, bao gồm nhiều khía cạnh về không gian, thời gian, sự sống và chân lý. Vũ trụ theo Phật học không có sự khởi đầu hay kết thúc, mà là một quá trình liên tục của sự hình thành, duy trì, tan rã và biến đổi. Vũ trụ theo Phật học cũng không có một bản chất cố định hay tuyệt đối, mà là một hiện tượng tương đối và tạm thời, phụ thuộc vào những nguyên nhân và điều kiện khác nhau. Vũ trụ theo Phật học cũng không có một thiết kế hay mục đích nào do một thực thể tối cao hay siêu nhiên nào định đoạt, mà là một sân khấu cho những chúng sinh tu tập và trải nghiệm những quả báo của nhân quả.

 

Vũ trụ theo Phật học có thể được chia thành nhiều cấp độ hay tầng lớp khác nhau, tùy thuộc vào những phương pháp phân loại khác nhau. Một trong những phương pháp phổ biến nhất là phân chia vũ trụ thành ba giới: giới vô minh, giới dục và giới biến. Giới vô minh là nơi sinh sống của những chúng sinh bị ám ảnh bởi sự si mê và vô minh, không có tâm thức hay ngôn ngữ. Giới dục là nơi sinh sống của những chúng sinh bị ám ảnh bởi sự tham lam và dục vọng, có tâm thức và ngôn ngữ. Giới biến là nơi sinh sống của những chúng sinh bị ám ảnh bởi sự căm giận và hận thù, có tâm thức và ngôn ngữ. Mỗi giới lại có nhiều cõi hay cấp độ khác nhau, tương ứng với những trạng thái tâm thức khác nhau của chúng sinh. Các cõi này có thể được xếp theo thứ tự từ thấp đến cao, từ khổ đến lạc, từ tối đến sáng.

 

Vũ trụ theo Phật học cũng có thể được chia thành nhiều hệ thống thế giới hay thế giới nhỏ khác nhau, mỗi hệ thống thế giới bao gồm một trung tâm là một ngọn núi lớn tên là Sumeru, bốn đại lục ở bốn phương, và một số cõi trời và cõi địa ngục xung quanh. Mỗi hệ thống thế giới lại có một thời gian riêng, một tuổi thọ riêng, và một quy luật riêng. Những hệ thống thế giới này có thể được xem là những vũ trụ song song hay những vũ trụ lồng nhau, tùy thuộc vào góc nhìn khác nhau. Những hệ thống thế giới này cũng có thể được gộp lại thành một hệ thống thế giới lớn hơn, gọi là một nghìn thế giới nhỏ, một triệu thế giới trung, hay một tỷ thế giới đại. Những hệ thống thế giới này cũng có thể được mở rộng ra vô hạn, không có giới hạn hay ranh giới nào.

 

Vũ trụ theo Phật học cũng có thể được chia thành nhiều kỷ nguyên hay thời kỳ khác nhau, mỗi kỷ nguyên có một đặc điểm riêng. Một kỷ nguyên được gọi là một kalpa, tương đương với khoảng thời gian mà một hệ thống thế giới hình thành, duy trì, tan rã và biến đổi. Một kalpa có thể được chia thành bốn giai đoạn: giai đoạn hình thành, giai đoạn duy trì, giai đoạn tan rã và giai đoạn biến đổi. Mỗi giai đoạn có thể kéo dài hàng trăm nghìn năm hay hàng triệu năm, tùy thuộc vào hệ thống thế giới nào. Những kỷ nguyên này cũng có thể được gộp lại thành một kỷ nguyên lớn hơn, gọi là một nghìn kalpa, một triệu kalpa, hay một tỷ kalpa. Những kỷ nguyên này cũng có thể được mở rộng ra vô hạn, không có khởi đầu hay kết thúc nào.

 

Kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkhaṇa Sutta) đã dạy phân biệt năm uẩn (tất cả sắc, thọ, tưởng, hành và thức) với chánh trí tuệ theo ba cách:

 

1. Cái này không phải của tôi (netaṃmama)

2. Cái này không phải là tôi (nesohamasmi)

3. Cái này không phải tự ngã của tôi (nameso attā).

 

Khi ăn: Nếu thiền giả hay biết mình

Đang ăn khi đang ăn, trí tuệ sẽ sinh khởi.

Nếu thiền giả nhận thức rõ mình

Đang ăn khi đang ăn, thiền giả đang có trí tuệ.

Nhưng nếu thiền giả không hay biết

Rõ mình đang ăn khi đang ăn

Thì vô minh đang có mặt.

Được gọi là vô minh khi một người đang ăn

Mà không hay biết mình đang làm gì.

 

Khi uống: Bất cứ khi nào đang uống nước

Hoặc uống trà hay uống thuốc,

Nếu thiền giả biết mình đang uống

Thì trí tuệ sẽ sinh khởi.

Nếu thiền giả không hay biết điều này,

Đó là vô minh.

 

Nhai: Bất cứ khi nào

Đang cắn thức ăn như rễ cây, củ v.v…

Thiền giả biết mình đang cắn,

Khi nhai biết mình đang nhai,

Khi ăn biết mình đang ăn

Thì có trí tuệ sinh khởi.

Nếu thiền giả không hay biết mình

Đang cắn, đang nhai, đang ăn thì đó là vô minh.

 

Liếm: Bất cứ khi nào liếm mật ong, xi-rô v.v…,

Nếu thiền giả biết đang liếm, là đang liếm

Thì trí tuệ sinh khởi.

Nếu thiền giả không biết

Đó là vô minh.

 

Đại tiện và tiểu tiện: Khi đại tiện và tiểu tiện,

Thiền giả biết đang đại tiện và tiểu tiện

Là đang đại tiện và tiểu tiện thì trí tuệ sinh khởi. Nếu thiền giả không biết đó là vô minh.

 

Đi: Bất cứ khi nào đang đi,

Nếu thiền giả biết đang đi là đang đi

Thì trí tuệ sinh khởi.

Nếu thiền giả không biết

Đó là vô minh.

 

Đứng: Bất cứ khi nào đang đứng,

Nếu thiền giả biết đang đứng là đang đứng

Thì trí tuệ sinh khởi.

Nếu thiền giả không biết

Đó là vô minh.

 

Ngồi: Bất cứ khi nào đang ngồi,

Nếu thiền giả biết đang ngồi là đang ngồi

Thì trí tuệ sinh khởi.

Nếu thiền giả không biết

Đó là vô minh.

 

Ngủ: Bất cứ khi nào đi ngủ,

Nếu thiền giả biết đang đi ngủ

Là đang đi ngủ thì trí tuệ sinh khởi.

Nếu thiền giả không biết

Đó là vô minh.

 

Thức giấc: Bất cứ khi nào thức giấc,

Nếu thiền giả biết đang thức giấc

Là đang thức giấc thì tuệ sinh khởi.

Nếu thiền giả không biết

Đó là vô minh.

 

Nói: Bất cứ khi nào đang nói,

Nếu thiền giả biết đang nói là đang nói

Thì trí tuệ sinh khởi.

Nếu thiền giả không biết

Đó là vô minh.

 

Im lặng: Bất cứ khi nào đang im lặng,

Nếu thiền giả biết đang im lặng

Là đang im lặng thì trí tuệ sinh khởi.

Nếu thiền giả không biết

Đó là vô minh.

 

 

Nếu thiền giả biết điều gì

Đang xảy ra thì trí tuệ sinh khởi.

Nếu thiền giả không biết, thì sao?

Nếu thiền giả không biết, thì đó là vô minh.

 

Tại sao?

Vì vô minh có nghĩa là không hay biết.

Thật ra, vô minh, si và không hay biết là những từ đồng nghĩa.

Trí tuệ, vô si, và hay biết là những từ đồng nghĩa.

 

Nếu vô minh có mặt,

Quy luật tuần hoàn của vòng duyên khởi (paṭiccasamuppāda) sẽ tiếp tục xoay vần –

Đó là hành (Saṅkhāra), thức (viññāṇa),

Các hiện tượng danh sắc (Nāmarūpa) v.v…,

Và các quãng thời gian

Tái sinh sẽ bị kéo dài ra.

 

Nhưng nếu thiền giả có sự hay biết,

Trí tuệ sẽ sinh khởi.

Nếu trí tuệ sinh khởi,

Vô minh sẽ tan biến và chấm dứt.

Nếu vô minh không còn,

Chuỗi tuần hoàn của vòng duyên khởi –

Đó là hành (Saṅkhāra), thức (viññāṇa),

Các hiện tượng danh sắc (Nāmarūpa) v.v

Sẽ bị phá vỡ,

Chu kỳ tái sinh sẽ dừng lại

Và không còn tiếp tục xoay vần.

 

Hành là kết quả của vô minh.

Đức Phật dạy,

Các hành lấy vô minh làm nhân. 

Nếu có vô minh làm nhân,

Các hành sẽ là quả.

Nếu vô minh diệt thì các hành

Sẽ không còn hiện hữu.

Vô minh diệt thì các hành cũng diệt theo.

 

Nói tóm lại tất cả các hành động

Được thực hiện bằng thân, khẩu, ý

Phải được xem như là

Các đối tượng để quán chiếu.

 

Đó là lý do tại sao Đức Phật dạy:

Này các Tỳ-khưu,

Mọi thứ phải được hay biết

Một cách rành mạch,

Có sự phân biệt rõ ràng, đâu ra đấy.

 

 

Thực tập theo cách này,

Thiền giả sẽ có trí tuệ.

Ngài dạy rằng khi bạn đang đi,

Rất khó giữ sự hay biết một cách liên tục

Rằng đang đi là đang đi.

Dầu bạn biết được việc phải thực tập

Vẫn khó mà thực tập.

Cho dẫu bạn thực tập,

Cũng rất khó để

Thực tập cho được trọn vẹn.

 

Tại sao?

Bởi vì việc Áp dụng chánh niệm (Satipaṭṭhāna)

- đối tượng của các thiền giả cao thượng –

Thực sự là rất khó để thực tập, mặc dù

Mới nhìn thì việc này thấy có vẻ dễ dàng,

Nó cũng thật là sâu sắc,

Mặc dù trông nó có vẻ dễ dàng.

 

Vì vậy Đức Phật dạy:

Nếu có vô minh làm nhân,

Thì các hành sẽ là quả.

Khi nhân của vô minh diệt,

Các hành sẽ không còn hiện hữu.

 

 

Rất khó phân biệt giữa nhân và quả.

Để phân biệt được chúng,

Chúng ta hãy lấy thí dụ

Cái cây và cái bóng của nó.

Cái cây có trước vì vậy nó là nhân,

Cái bóng có sau vì vậy nó là quả.

 

Cũng giống cái cây là nhân

Và cái bóng của nó là quả,

Vô minh (avijjā) là nhân và hành (Saṅkhāra) là quả.

 

Nếu không có vô minh,

Sẽ không có các hành.

Nếu không có cây,

Sẽ không có bóng.

Nếu có một cái cây,

Sẽ có một cái bóng.

 

Đó là lý do tại sao Đức Phật dạy:

Nếu vô minh có mặt,

Các hành sẽ sinh khởi. 

Nếu vô minh diệt thì các hành cũng diệt.

Đừng coi thường việc các hành diệt.

Nó chính là sự chấm dứt sự hiện hữu,

Sự dập tắt sự hiện hữu,

Sự tột cùng của kiếp tồn sinh.

Tại sao? Vì không còn vô minh (avijjā).

Nếu còn vô minh (avijjā), các hành (Saṅkhāra)

Sẽ sinh khởi,

Tức là có sự ra đời của một chúng sinh.

Nếu vô minh được chấp nhận

(để cho sinh khởi),

Tấm thân ngũ uẩn này sẽ hiện hữu.

 

Do đó để đạt được trí tuệ,

Bất cứ khi nào bạn nhìn,

Nghe, ngửi, ăn, xúc chạm,

Biết, bạn nên quán chiếu chúng.

 

Ngay khoảnh khắc bạn

Nhìn thấy một vật gì đó,

Hãy ghi nhận thấy.

 

Ngay khoảnh khắc bạn nghe

Một điều gì đó,

Hãy ghi nhận nghe.

 

Ngay khoảnh khắc bạn ngửi

Một mùi gì đó,

Hãy ghi nhận ngửi.

 

 

Ngay khoảnh khắc bạn đang ăn

Một thứ gì đó,

Hãy ghi nhận ăn.

 

Ngay khoảnh bạn xúc chạm

Một vật nào đó,

Hãy ghi nhận xúc chạm.

 

Ngay khoảnh khắc bạn biết

Một điều gì đó,

Hãy ghi nhận biết.

 

Bạn cần phải tu tập minh sát (Vipassana)

Thiền nội quán theo lời dạy của Đức Phật.

Hơn nữa, bạn nên quán chiếu

Bất cứ hành động bạn đang làm:

Ăn, uống, cắn, liếm, ngủ, thức giấc,

Nói chuyện, giữ im lặng, thở vào, thở ra, chuyển động phồng xẹp của bụng,

Nóng và lạnh, mềm và cứng, thô và tế,

Các cảm giác dễ chịu và khó chịu,

Tham lam, sân hận, si mê, kiêu mạn,

Đố kỵ, ích kỷ, giận dữ, thù hận, dèm pha,

Mong muốn được làm mất thể diện một ai đó, mong muốn làm hạ phẩm giá của một ai đó, che giấu lỗi lầm, đạo đức giả, nhẫn tâm,

Ganh đua, buồn phiền, than khóc, đau đớn,

Đau buồn, v.v…

 

Có rất nhiều điều bạn cần phải quán chiếu.

Bạn càng quán chiếu nhiều chừng nào,

Bạn sẽ có trí tuệ nhiều chừng nấy.

 

Khi minh (vijjā) sinh khởi, vô minh (avijjā) diệt.

Khi vô minh diệt,

Sẽ không còn tái sanh nữa.

 

Tột bậc của sự quán chiếu chính là đây.

Đức Phật dạy,

Trừ phi vô minh diệt,

Các hành sẽ không bao giờ chấm dứt

Vì bất cứ một nguyên nhân nào khác.

 

Tại sao? Vì Đức Phật dạy,

Các hành diệt chỉ khi vô minh diệt.

Tất cả các bất thiện pháp đều có

Vô minh là kẻ làm tiền trạm cho chúng.

 

Đức Phật dạy,

Này các tỳ-khưu,

Trong việc phạm vào các ác pháp,

Vô minh (avijjā) là kẻ dẫn đầu.

Nếu vô minh (avijjā),

Căn nguyên của mọi

Phiền não được diệt tận,

Tất cả phiền não sẽ bị nhổ tận gốc.

 

Vậy, diệt tận vô minh có nghĩa là sao?

Vô minh được diệt tận bằng chánh niệm.

Chánh niệm tự bản thân nó là minh.

Nếu minh sinh khởi,

Vô minh không thể tồn tại. 

 

Do đó, Đức Phật dạy:

Khi minh (vijjā) sinh khởi,

Phải hiểu rằng vô minh đã bị xua tan.

Nếu vô minh đã bị không còn nữa,

Không một phiền não mảy may nào,

Ở bất kỳ hình thức nào,

Có thể sinh khởi.

 

Nếu không có phiền não

Và nếu các phiền não,

Không phát sinh

Thì không còn thứ gì

Có thể tạo điều kiện

(duyên) cho sự sinh.

 

Đức Phật dạy:

Hành động mà

Không có phiền não thì không thể,

Tạo điều kiện (duyên) cho sự sinh.

 

Cần lưu ý ở đây là,

Hành động không có phiền não

Có nghĩa là hành động thiện.

Hành động thiện

Không tạo ra sự tái sinh,

Trái lại nó dập tắt sự tồn tại.

Nó không có phiền não.

 

Chỉ có hành động bất thiện

Mới tạo ra sự tái sinh.

Thậm chí khi mọi hành động

Bất thiện không tạo ra các yếu tố

Dẫn đến sự sinh, thì tham ái,

Mỗi một mình nó,

Sẽ tạo ra sự tái sinh.

 

Do đó, Đức Phật dạy:

Bất thiện pháp có nghĩa là

12 loại tâm sở bất thiện.

 

 

Tâm sở (cetasika),

Là những yếu tố phụ thuộc vào tâm,

Gắn liền với một nhận thức.

Trong số đó, ái (tanha) đặc biệt

Là một loại bất thiện pháp mạnh nhất.

 

Nó thực sự tạo ra một sự sanh mới,

Và vì vậy nó được gọi (ponobhavika)

Tham ái là nguyên nhân của sự tái sanh.

 

Chỉ có tham ái là bất thiện pháp

Tạo ra một sự sinh mới.

Nói ngắn gọn, trạng thái ham muốn

Và bị thúc dục được gọi là nghiệp – (kamma).

 

Đức Phật dạy:

Để không còn tái sanh trong cõi giới kế tiếp,

Bất cứ hành động nào

Được thực hiện bằng thân, khẩu và ý,

Nếu ông quán chiếu từng hành động

Một cách thận trọng,

Ông biết rằng một mắc xích của vòng

Sinh tử luân hồi đã bị cắt đứt.

 

Từ kamma –nghiệp,

Hành động mà không có phiền não

Được đề cập trước đây

Không có nghĩa thiền giả

Chỉ hành thiền để thanh lọc tâm

Mà còn thực tập bố thí và trì giới.

Không nên hiểu lầm thực tập,

Bố thí và trì giới là tạo nhân,

Cho việc kéo dài vòng sinh tử luân hồi.

 

Để đưa ra một gợi ý,

Cho thấy thực tập

Bố thí và trì giới không tạo nhân,

Cho việc kéo dài vòng sinh tử luân hồi,

Trích dẫn từ kinh pali:

Về ba căn nguyên của bất thiện nghiệp

Và ba căn nguyên của thiện nghiệp.

 

Đức Phật dạy:

Này các tỳ-khưu, tham, sân và si,

Là ba căn nguyên đưa tới ác nghiệp.

Vô tham, vô sân và vô si,

Là ba căn nguyên đưa đến thiện nghiệp.

 

Ba căn nguyên bất thiện tạo nghiệp,

Chúng không làm chấm dứt nghiệp,

Trong khi ba căn nguyên thiện,

Làm chấm dứt nghiệp,

Chúng không tạo nghiệp (mới).

 

Đức Phật dạy:

Này các tỳ-khưu,

Có một số kamma (nghiệp),

Đưa đến cái vòng lẩn quẩn của khổ,

Và cái vòng lẩn quẩn này,

Được tạo ra bởi tham,

Có tham là căn nguyên của nó,

Có tham là căn nguyên của sự sinh khởi.

Nghiệp dẫn đến cái vòng lẩn quẩn của khổ,

Được gọi là bất thiện nghiệp.

 

Bất thiện nghiệp không được tán dương,

Vì nó tạo ra quả xấu.

Bất thiện nghiệp dẫn đến,

Cái vòng lẩn quẩn của khổ đó,

Tạo nhân sinh khởi của nghiệp.

 

Bất thiện nghiệp đó,

Không làm cho nghiệp ngưng lại.

 

Tương tự như vậy đối với sân và si.

 

Lời dạy này của Đức Phật cho thấy,

Bất thiện nghiệp được tạo ra như thế nào,

Và tại sao nó không được coi là thù thắng.

 

Đức Phật dạy:

Này các tỳ-khưu,

Có một số nghiệp đưa đến niếp-bàn,

Sự chấm dứt khổ,

Và những nghiệp này,

Được tạo ra bởi vô tham,

Có vô tham làm căn nguyên của nó,

Có vô tham là căn nguyên của sự sinh khởi.

 

Nghiệp đưa đến Niếp-bàn,

Sự chấm dứt khổ được gọi là thiện nghiệp.

Thiện nghiệp đó được tán dương

Vì nó tạo ra quả tốt.

 

Thiện nghiệp đó làm cho nghiệp dừng lại.

Thiện nghiệp đó không tạo

Nhân sinh khởi của nghiệp.

 

Đức Phật giải thích một cách khác rằng

Thiện nghiệp không tạo ra nghiệp,

Và chính thiện nghiệp đó,

Đưa đến sự chấm dứt nghiệp.

 

 

Đức Phật giải thích như sau:

Bố thí là căn nguyên của vô tham,

Giới là căn nguyên của vô sân,

Và hành thiền thanh lọc tâm,

Là căn nguyên của vô si.

 

Để giải thích lẽ thực rằng

Ba thiện nghiệp,

Bố thí, trì giới và hành thiền,

Thanh lọc tâm không kéo dài

Vòng sinh tử luân hồi,

Thay vào đó chúng chặt đứt

Các mắt xích của vòng sinh tử luân hồi.

 

Con đường đạo và quả không thể

Đạt được mà không dựa vào một cái gì đó.

Chúng phải dựa vào bố thí,

Trì giới và hành thiền để thanh lọc tâm.

 

KINH LỬA CHÁY

Aditta-pariyaya Sutta (SN 35.28)

 

1)   Một thời Thế Tôn trú ở GA GIÁ (Gàya),

Tại GA GIÁ XI XÁ (Gàyasìsa)

Cùng với một ngàn Tỳ-khưu.

 

2) Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỳ-khưu:

–Tất cả, này các Tỳ-khưu, đều bị bốc cháy.

Và này các Tỳ-khưu,

Tất cả cái gì đều bị bốc cháy?

 

Mắt, này các Tỳ-khưu, bị bốc cháy.

Các sắc bị bốc cháy.

Nhãn thức bị bốc cháy.

Nhãn xúc bị bốc cháy.

Do duyên nhãn xúc nên

Khởi lên cảm thọ gì,

Lạc, khổ hay bất khổ bất lạc;

Cảm thọ ấy bị bốc cháy.

 

Bị bốc cháy bởi cái gì?

Bị bốc cháy bởi lửa tham, lửa sân, lửa si.

Ta nói rằng bị bốc cháy bởi sanh,

Già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.

 

2)   Tai, này các Tỳ-khưu, bị bốc cháy.

Các thinh bị bốc cháy.

Nhĩ thức bị bốc cháy.

Nhĩ xúc bị bốc cháy.

Do duyên nhĩ xúc nên khởi lên cảm thọ gì,

Lạc, khổ hay bất khổ bất lạc;

Cảm thọ ấy bị bốc cháy.

 

Bị bốc cháy bởi cái gì?

Bị bốc cháy bởi lửa tham, lửa sân, lửa si.

Ta nói rằng bị bốc cháy bởi sanh,

Già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.

 

3)   Mũi, này các Tỳ-khưu, bị bốc cháy.

Các hương bị bốc cháy.

Tỷ thức bị bốc cháy.

Tỷ xúc bị bốc cháy.

Do duyên tỷ xúc nên khởi lên cảm thọ gì,

Lạc, khổ hay bất khổ bất lạc;

Cảm thọ ấy bị bốc cháy.

 

Bị bốc cháy bởi cái gì?

Bị bốc cháy bởi lửa tham, lửa sân, lửa si.

Ta nói rằng bị bốc cháy bởi sanh,

Già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.

 

4) Lưỡi bị bốc cháy.

Các vị bị bốc cháy.

Thiệt thức bị bốc cháy.

Thiệt xúc bị bốc cháy.

 

Do duyên thiệt xúc

Nên khởi lên cảm thọ gì,

Lạc, khổ hay bất khổ bất lạc;

Cảm thọ ấy bị bốc cháy.

 

Bị bốc cháy bởi cái gì?

Bị bốc cháy bởi lửa tham, lửa sân, lửa si.

Ta nói rằng bị bốc cháy bởi sanh,

Già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.

 

5) Thân bị bốc cháy.

Các xúc bị bốc cháy.

Thân thức bị bốc cháy.

Thân xúc bị bốc cháy.

Do duyên thân xúc

Nên khởi lên cảm thọ gì,

Lạc, khổ hay bất khổ bất lạc;

Cảm thọ ấy bị bốc cháy.

 

Bị bốc cháy bởi cái gì?

Bị bốc cháy bởi lửa tham, lửa sân, lửa si.

Ta nói rằng bị bốc cháy bởi sanh,

Già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.

 

6) Ý bị bốc cháy.

Các pháp bị bốc cháy.

Ý thức bị bốc cháy.

Ý xúc bị bốc cháy.

 

Do duyên thân xúc

Nên khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ

Hay bất khổ bất lạc;

Cảm thọ ấy bị bốc cháy.

 

Bị bốc cháy bởi cái gì?

Bị bốc cháy bởi lửa tham, lửa sân, lửa si.

Ta nói rằng bị bốc cháy bởi sanh,

Già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.

 

7) Thấy vậy, này các Tỳ-khưu,

Vị đa văn thánh đệ tử nhàm chán

Đối với mắt, nhàm chán đối với các sắc,

Nhàm chán đối với nhãn thức,

Nhàm chán đối với nhãn xúc.

 

Do duyên nhãn xúc

Khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ,

Hay bất khổ bất lạc;

Vị ấy nhàm chán đối với cảm thọ ấy.

 

Nhàm chán đối với tai,

Nhàm chán đối với các thinh,

Nhàm chán đối với nhĩ thức,

Nhàm chán đối với nhĩ xúc.

 

Do duyên nhĩ xúc khởi lên cảm thọ gì,

Lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc;

Vị ấy nhàm chán đối với cảm thọ ấy.

Nhàm chán đối với mũi,

Nhàm chán đối với các hương,

Nhàm chán đối với tỷ thức,

Nhàm chán đối với tỷ xúc.

 

Do duyên tỷ xúc khởi lên cảm thọ gì,

Lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc;

Vị ấy nhàm chán đối với cảm thọ ấy.

 

Nhàm chán đối với lưỡi,

Nhàm chán đối với các vị,

Nhàm chán đối với thiệt thức,

Nhàm chán đối với thiệt xúc.

 

Do duyên thiệt xúc khởi lên cảm thọ gì,

Lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc;

Vị ấy nhàm chán đối với cảm thọ ấy.

 

Nhàm chán đối với thân,

Nhàm chán đối với các xúc,

Nhàm chán đối với thân thức,

Nhàm chán đối với thân xúc.

 

Do duyên thân xúc khởi lên cảm thọ gì,

Lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc;

Vị ấy nhàm chán đối với cảm thọ ấy.

 

Nhàm chán đối với ý,

Nhàm chán đối với các pháp,

Nhàm chán đối với ý thức,

Nhàm chán đối với ý xúc.

 

Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì,

Lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc;

Vị ấy nhàm chán đối với cảm thọ ấy.

 

Do nhàm chán nên vị ấy ly tham.

Do ly tham nên vị ấy được giải thoát.

Trong sự giải thoát,

Khởi lên trí hiểu biết rằng:

Ta đã giải thoát.

Vị ấy biết rõ:

Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành,

Những việc nên làm đã làm,

Không còn trở lui với trạng thái này nữa.

 

8) Thế Tôn thuyết như vậy.

Các Tỳ-khưu ấy hoan hỷ,

Tín thọ lời Thế Tôn dạy.

 

9) Và trong khi lời giảng giải này được nói lên,

Tâm của một ngàn Tỳ-khưu ấy,

Được giải thoát khỏi các lậu hoặc,

Không có chấp thủ nữa.