Quán sát năm thủ uẩn
được dạy thế nào?
Tỳ-khưu quán sát:
Đây là sắc, đây là sắc
tập,
Đây là sắc diệt.
Quán sát
năm thủ uẩn được dạy thế nào? Năm thủ uẩn là năm nhóm của sự sống, gồm sắc (thể
chất), tận (cảm giác), tưởng (tưởng tượng), hành (tính cách) và thức (nhận thức).
Để quán sát năm thủ uẩn, chúng ta phải dùng sự minh mẫn và tỉnh giác để nhìn thấy
rằng năm thủ uẩn không có bản chất hay tính chất nào riêng biệt, mà chỉ là những
hiện tượng phát sinh và diệt theo luật nhân quả. Chúng ta không nên gắn bó hay
luyến lưu với năm thủ uẩn, mà phải nhận ra được tính vô thường, khổ đau và vô
ngã của chúng.
Tỳ-khưu quán sát: Ðây là sắc, đây là sắc
tập, đây là sắc diệt. Đây là một trong các phương pháp quán sát năm thủ uẩn. Mũi,
là một trong sáu giác quan của con người. Quán sát là quán chiếu và nhận biết
các hiện tượng liên quan đến mũi, như hơi thở, mùi hương… Ðây là sắc có nghĩa
là chúng ta nhận ra được rằng mũi là một hiện tượng sắc, là một hiện tượng thể
chất. Ðây là sắc tập có nghĩa là chúng ta nhận ra được rằng mũi không tồn tại một
cách riêng lẻ hay độc lập, mà chỉ là kết quả của sự kết hợp và ảnh hưởng của
nhiều yếu tố duyên khởi. Ðây là sắc diệt có nghĩa là chúng ta nhận ra được rằng
mũi không có sự bền vững hay ổn định nào, mà luôn luôn biến đổi theo duyên khởi.
Ðây là thọ, đây là thọ
tập,
Đây là thọ diệt.
Ðây là
thọ tập có nghĩa là chúng ta nhận ra được rằng khả năng tiếp nhận không tồn tại
một cách riêng lẻ hay độc lập, mà chỉ là kết quả của sự kết hợp và ảnh hưởng của
nhiều yếu tố duyên khởi. Ðây là thọ diệt có nghĩa là chúng ta nhận ra được rằng
khả năng tiếp nhận không có sự bền vững hay ổn định nào, mà luôn luôn biến đổi
theo duyên khởi.
Ðây là tưởng, đây là
tưởng tập;
Đây là tưởng diệt.
Tưởng là
khả năng tưởng tượng và ký ức do thức gây ra. Quán sát tưởng là quán chiếu và
nhận biết các hiện tượng liên quan đến khả năng tưởng tượng này. Ðây là tưởng
có nghĩa là chúng ta nhận ra được rằng khả năng tưởng tượng là một hiện tượng
pháp, là một hiện tượng vô ngã. Ðây là tưởng tập có nghĩa là chúng ta nhận ra
được rằng khả năng tưởng tượng không tồn tại một cách riêng lẻ hay độc lập, mà
chỉ là kết quả của sự kết hợp và ảnh hưởng của nhiều yếu tố duyên khởi. Ðây là
tưởng diệt có nghĩa là chúng ta nhận ra được rằng khả năng tưởng tượng không có
sự bền vững hay ổn định nào, mà luôn luôn biến đổi theo duyên khởi.
Ðây là hành, đây là
hành tập,
Đây là hành diệt.
Ðây là
hành có nghĩa là chúng ta nhận ra được rằng khả năng hành động là một hiện tượng
pháp, là một hiện tượng vô ngã. Ðây là hành tập có nghĩa là chúng ta nhận ra được
rằng khả năng hành động không tồn tại một cách riêng lẻ hay độc lập, mà chỉ là
kết quả của sự kết hợp và ảnh hưởng của nhiều yếu tố duyên khởi. Ðây là hành diệt
có nghĩa là chúng ta nhận ra được rằng khả năng hành động không có sự bền vững
hay ổn định nào, mà luôn luôn biến đổi theo duyên khởi.
Ðây là thức, đây là thức
tập,
Đây là thức diệt.
Thức là
khả năng phản chiếu và nhận diện các đối tượng của sáu giác quan (nhãn, nhĩ, tỷ,
thiệt, thân, tưởng) lên tâm. Quán sát thức là quán chiếu và nhận biết các hiện
tượng liên quan đến khả năng phản chiếu này. Ðây là thức có nghĩa là chúng ta
nhận ra được rằng khả năng phản chiếu là một hiện tượng pháp, là một hiện tượng
vô ngã. Ðây là thức tập có nghĩa là chúng ta nhận ra được rằng khả năng phản
chiếu không tồn tại một cách riêng lẻ hay độc lập, mà chỉ là kết quả của sự kết
hợp và ảnh hưởng của nhiều yếu tố duyên khởi. Ðây là thức diệt có nghĩa là chúng
ta nhận ra được rằng khả năng phản chiếu không có sự bền vững hay ổn định nào,
mà luôn luôn biến đổi theo duyên khởi.
Kinh này dạy cách quán
sát năm thủ uẩn, tức là năm loại pháp hữu vi (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) mà
chúng sinh thường lầm tưởng là bản ngã hay thuộc về bản ngã. Quán sát năm thủ uẩn
được dạy như sau:
Đối với sắc uẩn, tức là những pháp có tính chất
vật chất, người thiền giả quán sát: Đây là sắc, đây là sắc tập, đây là sắc diệt.
Tức là nhận ra rằng sắc không phải là bản ngã hay của ngã, mà chỉ là một hiện
tượng có khởi có diệt, có hợp có tan.
Đối với thọ uẩn, tức là những pháp có tính chất
cảm giác (khoái, khổ, lạc), người thiền giả quán sát: Đây là thọ, đây là thọ tập,
đây là thọ diệt. Tức là nhận ra rằng thọ cũng không phải là bản ngã hay của
ngã, mà chỉ là một hiện tượng có khởi có diệt, có hợp có tan.
Đối với tưởng uẩn, tức là những pháp có tính chất ý niệm (nhận biết, suy nghĩ), người thiền
giả quán sát: Đây là tưởng, đây là tưởng tập, đây là tưởng diệt. Tức là nhận ra
rằng tưởng cũng không phải là bản ngã hay của ngã, mà chỉ là một hiện tượng có
khởi có diệt, có hợp có tan.
Đối với hành uẩn, tức là những pháp có tính chất ý chí (mong muốn, ghét bỏ), người thiền
giả quán sát: Đây là hành, đây là hành tập, đây là hành diệt. Tức là nhận ra rằng
hành cũng không phải là bản ngã hay của ngã, mà chỉ là một hiện tượng có khởi
có diệt, có hợp có tan.
Đối với thức uẩn, tức là những pháp có tính chất ý thức (biết được các pháp khác), người
thiền giả quán sát: Đây là thức, đây là thức tập, đây là thức diệt. Tức là nhận
ra rằng thức cũng không phải là bản ngã hay của ngã, mà chỉ là một hiện tượng
có khởi có diệt, có hợp có tan.
Qua cách quán sát năm thủ uẩn này, người thiền
giả sẽ dần dần giải thoát khỏi sự lầm lạc và trói buộc của bản ngã và các phiền
não. Người thiền giả sẽ nhìn thấy rõ ràng rằng năm thủ uẩn không tồn tại theo
cách mà chúng ta nghĩ hay mong muốn. Năm thủ uẩn không phải là vĩnh cửu hay bất
biến; không phải là hoàn hảo hay viên mãn; không phải là riêng biệt hay độc lập.
Năm thủ uẩn chỉ tồn tại theo điều kiện và duyên khởi; chỉ biến đổi theo luật
nhân quả; chỉ tương quan và tương ứng với các pháp khác. Năm thủ uẩn không có bản
chất riêng, không có bản ngã hay của ngã. Năm thủ uẩn là không tự tại, không
thường, không an, không ngã. Đó là cách quán sát năm thủ uẩn theo thiền tập Phật
giáo.
Này các Tỳ-khưu,
Thế nào là vị Tỳ-khưu
sống
Quán pháp trên các
pháp?
Theo Phật giáo nguyên thủy, vị Tỳ-khưu sống
Quán pháp trên các pháp là vị Tỳ-khưu tu tập theo phương pháp quán chiếu các pháp
như thật, không bị lệch lạc bởi các kiến tưởng, dục vọng hay phiền não. Vị Tỳ-khưu
này có thể quán chiếu các pháp theo nhiều cách khác nhau, nhưng một trong những
cách quan trọng và cơ bản nhất là quán chiếu Tứ Diệu Đế, tức là quán chiếu về
khổ, tập, diệt và đạo.
Quán chiếu Tứ Diệu Đế là một trong những đối
tượng quan trọng của quán chiếu trong Phật giáo nguyên thủy. Bằng cách nhận diện
và làm chủ được cảm thọ, thiền giả có thể tránh bị cuốn theo các dục vọng hay
ác ý do cảm thọ sinh ra. Cũng bằng cách nhận diện và làm chủ được cảm thọ, thiền
giả có thể sống với thực tại một cách an lạc và tự do.
Quán chiếu Tứ Diệu Đế được chia làm ba giai
đoạn và mỗi giai đoạn có bốn hành tướng nên gọi là Tam chuyển thập nhị hành tướng.
Tứ Diệu Đế của đức Phật trong Phật giáo
Nguyên thủy. Tứ Diệu Đế là bốn lẽ thật về khổ, tập, diệt và đạo, là cơ sở của
giáo lý Phật giáo.
Đây là khổ đế, đây là tập đế, đây là diệt đế
và đây là đạo đế.
Đây là khổ đế các ông phải biết. Đây là tập đế
các ông phải đoạn. Đây là diệt đế các ông phải chứng. Đây là đạo đế các ông phải
tu.
Phật dạy: Đây là khổ ta đã biết, đây là khổ tập
ta đã đoạn. Đây là khổ diệt ta đã chứng và đây là khổ đạo ta đã tu.
Qua ba giai đoạn này, thiền giả có thể hiểu
rõ và thực tập theo Tứ Diệu Đế để giải thoát khổ ách luân hồi và chứng nhập Niết
bàn thanh tịnh.
Vị Tỳ-khưu sống Quán pháp trên các pháp sẽ
theo gương của Đức Phật và các A la hán để tu tập theo. Vị Tỳ-khưu này sẽ có ý
chí sắt đá, trí tuệ cao siêu, đức sống vị tha, sự thoát ly và đặc biệt là sống
đời gương mẫu làm lợi ích cho mình, cho người.
Này các Tỳ-khưu,
Ở đây tỳ-khưu sống
quán pháp
Trên các pháp đối với
năm triền cái.
Và này
các Tỳ-khưu,
Thế nào
là vị Tỳ-khưu sống quán pháp
Trên các
pháp đối với năm triền cái?
Kinh này
dạy cách quán sát các pháp, tức là các hiện tượng, các sự vật, các sự việc,
theo quan điểm của Phật giáo. Quán sát các pháp trên các pháp được dạy như sau:
Đối với
năm triền cái, tức là năm loại phiền não (tham, sân, si, kiêu, ngu), người thiền
giả quán sát: Đây là triền cái, đây là triền cái tập, đây là triền cái diệt. Tức
là nhận ra rằng triền cái không phải là bản ngã hay của ngã, mà chỉ là một hiện
tượng có khởi có diệt, có hợp có tan. Triền cái là nguyên nhân gây ra khổ đau
cho chúng sinh. Triền cái được nuôi dưỡng bởi các pháp không chánh (như vọng ngữ,
hai lưỡi, ác khẩu, phù phiếm ngữ…). Triền cái được đoạn tận bởi các pháp chánh
(như chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ…).
Đối với
năm uẩn, tức là năm loại pháp hữu vi (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), người thiền
giả quán sát: Đây là uẩn, đây là uẩn tập, đây là uẩn diệt. Tức là nhận ra rằng
uẩn cũng không phải là bản ngã hay của ngã, mà chỉ là một hiện tượng có khởi có
diệt, có hợp có tan. Uẩn là cơ sở để chúng sinh sanh tử luân hồi. Uẩn được nuôi
dưỡng bởi các pháp không chánh (như tham ái, sân hận, si mê…). Uẩn được đoạn tận
bởi các pháp chánh (như xuất ly, vô sân, vô hại…).
Đối với
năm giác quan và vật giác quan (mắt và hình sắc; tai và âm thanh; mũi và hương
vị; lưỡi và vị giác; thân và xúc giác; ý và dhamma), người thiền giả quán sát: Đây
là giác quan và vật giác quan, đây là giác quan và vật giác quan tập, đây là
giác quan và vật giác quan diệt. Tức là nhận ra rằng giác quan và vật giác quan
cũng không phải là bản ngã hay của ngã, mà chỉ là một hiện tượng có khởi có diệt,
có hợp có tan. Giác quan và vật giác quan là cơ sở để chúng sinh, sinh ra cảm
xúc (khoái, khổ, bình). Giác quan và vật giác quan được nuôi dưỡng bởi các pháp
không chánh (như tham ái, thích ghét…). Giác quan và vật giác quan được đoạn tận
bởi các pháp chánh (như tuệ biết theo như thực…).
Qua cách
quán sát các pháp trên các pháp này, người thiền giả sẽ dần dần giải thoát khỏi
sự lầm lạc và trói buộc của bản ngã và các phiền não. Người thiền giả sẽ nhìn
thấy rõ ràng rằng các pháp không tồn tại theo cách mà chúng ta nghĩ hay mong muốn.
Các pháp không phải là vĩnh cửu hay bất biến; không phải là hoàn hảo hay viên
mãn; không phải là riêng biệt hay độc lập. Các pháp chỉ tồn tại theo điều kiện
và duyên khởi; chỉ biến đổi theo luật nhân quả; chỉ tương quan và tương ứng với
các pháp khác. Các pháp không có bản chất riêng, không có bản ngã hay của ngã.
Các pháp là không tự tại, không thường, không an, không ngã. Đó là cách quán
sát các pháp trên các pháp theo thiền tập Phật giáo.
Này các Tỳ-khưu,
Ở đây tỳ-khưu, nội tâm
có tham dục,
Tuệ tri: nội tâm tôi
có tham dục;
Hay nội tâm không có
tham dục,
Tuệ tri rằng:
Nội tâm tôi không có
tham dục.
Và với tham dục chưa
sanh nay sanh khởi,
Vị ấy tuệ tri như vậy.
Và với tham dục đã
sanh nay được đoạn diệt,
Vị ấy tuệ tri như vậy.
Và với tham dục đã được
đoạn diệt,
Tương lai không sanh
khởi nữa,
Vị ấy tuệ tri như vậy.
Người
thiền giả cần tuệ tri rõ ràng trạng thái nội tâm của mình: có hay không có tham
dục. Tham dục ở đây ý chỉ mong muốn hoặc ghét bỏ các pháp hữu vi. Người thiền
giả cũng cần tuệ tri rõ ràng quá trình sanh khởi và đoạn diệt của tham dục
trong nội tâm. Tham dục được sanh khởi do các điều kiện và duyên khởi; được đoạn
diệt do các pháp. Người thiền giả cũng cần tuệ tri rõ ràng khả năng đoạn tận
tham dục trong tương lai, khi đã đạt được giải thoát. Qua cách quán sát hành uẩn
này, người thiền giả sẽ dần dần giải thoát khỏi sự lầm lạc và trói buộc của bản
ngã và các phiền não. Người thiền giả sẽ nhìn thấy rõ ràng rằng hành uẩn không
tồn tại theo cách mà chúng ta nghĩ hay mong muốn. Hành uẩn không phải là vĩnh cửu
hay bất biến; không phải là hoàn hảo hay viên mãn; không phải là riêng biệt hay
độc lập. Hành uẩn chỉ tồn tại theo điều kiện và duyên khởi; chỉ biến đổi theo
luật nhân quả; chỉ tương quan và tương ứng với các pháp khác. Hành uẩn không có
bản chất riêng, không có bản ngã hay của ngã. Hành uẩn là không tự tại, không
thường, không an, không ngã. Đó là cách quán sát hành uẩn theo thiền tập Phật
giáo.
Hay nội tâm có sân hận/
Hôn trầm thụy miên/
Trạo hối/nghi, tuệ tri
rằng:
Nội tâm tôi có sân hận/
Hôn trầm thụy miên/trạo
hối/nghi;
Hay nội tâm không có
sân hận/
Hôn trầm thụy miên/trạo
hối/nghi,
Tuệ tri rằng: nội tâm
tôi không có sân hận/
Hôn trầm thụy miên/trạo
hối/nghi.
Và với sân hận/hôn trầm
thụy
Miên/trạo hối/nghi
chưa sanh nay sanh khởi,
Vị ấy tuệ tri như vậy.
Và với sân hận/hôn trầm
thụy miên/
Trạo hối/nghi đã sanh
nay được đoạn diệt,
Vị ấy tuệ tri như vậy.
Và với sân hận/hôn trầm
thụy miên/
Trạo hối/nghi đã được
đoạn diệt,
Tương lai không sanh
khởi nữa,
Vị ấy tuệ tri như vậy.
Người
thiền giả cần tuệ tri rõ ràng trạng thái nội tâm của mình: có hay không có sân
hận/hôn trầm thụy miên/trạo hối/nghi. Sân hận ở đây ý chỉ ghét bỏ hoặc oán giận
các pháp hữu vi. Hôn trầm ở đây ý chỉ lơ đãng hoặc thiếu hiểu biết trong quan
sát các pháp. Thụy miên ở đây ý chỉ buông lỏng hoặc thiếu nỗ lực trong tu tập.
Trạo hối ở đây ý chỉ lo lắng hoặc hối tiếc về quá khứ. Nghi ở đây ý chỉ nghi ngờ
hoặc không tin tưởng vào pháp chánh. Người thiền giả cũng cần tuệ tri rõ ràng
quá trình sanh khởi và đoạn diệt của sân hận/hôn trầm thụy miên/trạo hối/nghi
trong nội tâm. Sân hận/hôn trầm thụy miên/trạo hối/nghi được sanh khởi do các
điều kiện và duyên khởi; được đoạn diệt do các pháp chánh. Người thiền giả cũng
cần tuệ tri rõ ràng khả năng đoạn tận sân hận/hôn trầm thụy miên/trạo hối/nghi
trong tương lai, khi đã đạt được giải thoát.
Như vậy vị ấy sống
quán pháp
Trên các nội pháp;
Hay sống quán pháp
trên các ngoại pháp;
Hay sống quán pháp
trên cả các nội pháp,
Ngoại pháp.
Hay sống quán tánh
sanh khởi trên các pháp;
Hay sống quán tánh diệt
tận trên các pháp;
Hay sống quán tánh
sanh diệt trên các pháp.
Có những pháp ở đây,
Vị ấy sống an trú
chánh niệm
Với hy vọng hướng đến
chánh trí, chánh niệm.
Và vị ấy sống không
nương tựa,
Không chấp trước một vật
gì trên đời.
Quán sát
các pháp trên các pháp theo thiền tập Phật giáo. Thiền giả cần quán sát các
pháp trong nội tâm và ngoại cảnh theo ba góc độ: sanh khởi (khởi sinh), diệt
(biến mất) và sanh diệt (khởi sinh và biến mất). Các pháp ở đây ý chỉ các hiện
tượng hoặc các sự vật. Quán sát các pháp trên các pháp được dạy như sau:
Đối với
các nội pháp, tức là các hiện tượng trong nội tâm (như cảm xúc, ý niệm, ý
chí…), thiền giả quán sát: Đây là nội pháp, đây là nội pháp tập, đây là nội
pháp diệt. Tức là nhận ra rằng các nội pháp không phải là bản ngã hay của ngã,
mà chỉ là một hiện tượng có khởi có diệt, có hợp có tan.
Đối với
các ngoại pháp, tức là các hiện tượng ngoài cảnh (như sắc, âm, hương, vị,
xúc…), thiền giả quán sát: Đây là ngoại pháp, đây là ngoại pháp tập, đây là ngoại
pháp diệt. Tức là nhận ra rằng các ngoại pháp cũng không phải là bản ngã hay của
ngã, mà chỉ là một hiện tượng có khởi có diệt, có hợp có tan.
Đối với
cả các nội pháp và ngoại pháp, thiền giả quán sát: Đây là các pháp, đây là các
pháp tập, đây là các pháp diệt. Tức là nhận ra rằng cả các nội pháp và ngoại
pháp đều không phải là bản ngã hay của ngã, mà chỉ là một hiện tượng có khởi có
diệt, có hợp có tan.
Đối với
tánh sanh khởi trên các pháp, tức là sự khởi sinh của các hiện tượng theo điều
kiện và duyên khởi, thiền giả quán sát: Đây là sanh khởi trên các pháp, đây là
sanh khởi trên các pháp tập, đây là sanh khởi trên các pháp diệt. Tức là nhận
ra rằng sự sanh khởi của các hiện tượng không có gì thường trú hay bất biến, mà
chỉ là một hiện tượng có khởi có diệt, có hợp có tan.
Đối với
tánh diệt trên các pháp, tức là sự biến mất của các hiện tượng theo luật nhân
quả và thời gian, thiền giả quán sát: Đây là diệt trên các pháp, đây là diệt trên
các pháp tập, đây là diệt trên các pháp diệt. Tức là nhận ra rằng sự biến mất của
các hiện tượng không có gì vĩnh cửu hay bất biến, mà chỉ là một hiện tượng có
khởi có diệt, có hợp có tan.
Đối với
tánh sanh diệt trên các pháp, tức là sự khởi sinh và biến mất liên tục của các
hiện tượng theo điều kiện và duyên khởi cũng như luật nhân quả và thời gian, thiền
giả quán sát: Đây là sanh diệt trên các pháp, đây là sanh diệt trên các pháp tập,
đây là sanh diệt trên các pháp diệt. Tức là nhận ra rằng sự sanh diệt của các
hiện tượng không có gì thường trú hay bất biến, mà chỉ là một hiện tượng có khởi
có diệt, có hợp có tan.
Qua cách
quán sát các pháp trên các pháp này, thiền giả sẽ dần dần giải thoát khỏi sự lầm
lạc và trói buộc của bản ngã và các phiền não.
Này các Tỳ-khưu,
Như vậy tỳ-khưu sống
quán pháp
Trên các pháp, đối với
năm triền cái.
Năm Triền Cái là các
TÂM SỞ BẤT THIỆN
Năm thứ
triền cái này trong kinh có thí dụ
Tính chất
ngăn che tâm như năm thứ nước:
1-Tham dục tham như nước pha màu. Điều
này có nghĩa là khi chúng ta bị tham dục, chúng ta không nhìn thấy sự thật rõ
ràng, mà chỉ nhìn thấy những gì chúng ta muốn. Chúng ta bị lôi cuốn bởi những
hình ảnh đẹp đẽ, những âm thanh ngọt ngào, những mùi hương quyến rũ, những cảm
giác dễ chịu, và những ý tưởng hấp dẫn. Nhưng những điều này chỉ là nước pha
màu, không có giá trị thật sự, và sẽ biến mất khi chúng ta không còn khát khao.
Tham dục là một trong ba độc (tham, sân, si), là nguyên nhân của khổ đau và tái
sinh.
2- Sân hận như nước nóng sôi. Điều này có nghĩa là
khi chúng ta bị sân hận, chúng ta bị kích động bởi những gì chúng ta không
thích, không muốn, hoặc không công bằng. Chúng ta cảm thấy tức giận, căm phẫn,
thù ghét, và muốn trả thù. Nhưng những cảm xúc này chỉ làm chúng ta bị tổn
thương, mất bình an, và gây hại cho người khác. Sân hận làm nước trong lòng
chúng ta nóng sôi, không thể uống được, và có thể gây bỏng cho người khác. Sân
hận cũng là một trong ba độc.
3- Hôn trầm, thụy miên như nước đóng
rong. Điều
này có nghĩa là khi chúng ta bị hôn trầm, chúng ta không có sự minh mẫn, tỉnh
táo, và hiểu biết. Chúng ta sống trong sự mơ hồ, lơ đãng, và lười biếng. Chúng
ta không quan tâm đến nguyên nhân và kết quả của hành động của mình, không biết
phân biệt thiện ác, và không có ý thức về bản chất vô thường, khổ đau, và vô
ngã của mọi sự vật. Hôn trầm làm nước trong lòng chúng ta đóng rong, không có
ánh sáng và không có sinh khí. Hôn trầm cũng là một trong ba độc.
4- Phóng dật, trạo hối như nước dậy sóng. Điều này có nghĩa là khi chúng ta bị phóng dật, chúng ta
không có sự tĩnh lặng và ổn định trong tâm trí. Chúng ta bị xao lãng bởi những
suy nghĩ phiền não, lo lắng, hay loạn lạc. Chúng ta không thể tập trung vào một
đối tượng thiền tập hay một hoạt động nào đó. Chúng ta cũng bị trạo hối về quá
khứ hoặc lo âu về tương lai. Phóng dật và trạo hối làm nước trong lòng chúng ta
dậy sóng, không yên ổn và không trong sạch. Phóng dật và trạo hối là hai trong
năm uế (phóng dật, trạo hối, hôn trầm, thụy miên, hoài nghi), là những trở ngại
cho thiền tập.
5- Hoài nghi như nước bùn. Điều này có nghĩa là khi chúng ta bị hoài nghi, chúng ta
không có sự tin tưởng và quyết tâm. Chúng ta nghi ngờ về giáo lý Phật pháp, về
sự hướng dẫn của thiền sư, về khả năng của bản thân, và về kết quả của thiền tập.
Chúng ta không có lòng tin vào nguyên nhân và kết quả, vào luật nhân quả, và
vào Đức Phật, Phật pháp, Tăng đoàn, Giải thoát. Hoài nghi làm nước trong lòng
chúng ta bùn lầy, không trong sáng và không sạch sẽ. Hoài nghi cũng là một
trong năm uế.
NĂM TRIỀN CÁI TÂM SỞ BẤT THIỆN
Là những tâm sở tạo ra những điều ác xấu,
Phiền não (kilesa), ô nhiễm (māla)
Làm chúng sinh rơi vào khổ.
Hợp với những điều không tốt đẹp
Gọi là bất thiện với 5 nghĩa:
1-
Bệnh hoạn (rogayattha). Chúng ta bị bệnh hoạn về thân và tâm, không
có sức khỏe và sự an lạc.
2-
Không tốt đẹp (asundarattha). Chúng ta
không tốt đẹp về ngoại hình và nội tâm, không có sự duyên dáng và thanh cao.
3-
Không khôn khéo (achakattha). Chúng ta
không khôn khéo về lời nói và việc làm, không có sự thông minh và khéo léo.
4-
Lầm lỗi (savajjattha). Chúng ta lầm
lỗi về đạo đức và trí tuệ, không có sự chính trực và minh mẫn.
5-
Tạo quả khổ (dukkhavipākattha).
Chúng ta tạo quả khổ về hiện tại và tương lai, không có sự
hạnh phúc và giải thoát.
Tham dục (Lobha) là sự ôm ấp,
Bám víu những cảnh xuất hiện
Hợp với lòng ái dục,
Hợp với (sở kiến: điều mình thấy hay biết)
Ham muốn gọi là tham.
Khi gặp cảnh tốt đẹp thì tâm tham khởi lên,
Chấp trước trần cảnh,
Luyến ái đối tượng,
Say đắm theo ngũ dục.
Sở hữu tham có thể ví như
Một cục nam châm hút sắt.
Bị cảnh thu hút
Bị vướng mắc vào cảnh không dứt.
Tham dục (Lobha) là sự ôm ấp, bám víu những
cảnh xuất hiện hợp với lòng ái dục, hợp với điều mình thấy hay biết. Tham dục
là một trong ba trạng thái tinh thần có hại trong Phật giáo, cùng với sân (Dosa) và si (Moha). Tham dục là nguyên nhân
của nhiều hành động ác, gây ra khổ đau cho bản thân và người khác.
Tham dục có nghĩa là luyến ái, bám níu, khát
vọng hay tham lam. Tham dục làm cho tâm bị bóp nghẹt, không thể thỏa mãn và
luôn muốn chiếm đoạt những đối tượng đáng được ưa thích. Tham dục là nguyên
nhân của sự khổ đau và luân hồi sanh tử. Để giải thoát khỏi tham dục, Phật giáo
khuyên ta phải tu tập thiểu dục tri túc, tức là ít muốn biết đủ, và phát triển
tâm từ bi và trí tuệ. Tham dục được minh họa bằng nhiều ví dụ trong các kinh điển
Phật giáo, như con chim, rắn và lợn cắn đuôi nhau trong bánh xe luân hồi, hay
con khỉ bị dính vào keo bẫy khỉ do các thợ săn đặt ra.
Sân (Dosa) là không bằng
lòng.
Khi có cảnh trái ý,
Nghịch lòng thì tâm Sân hay khởi lên.
Nếu tâm tham là sự gom vào,
Sự ôm ấp, gìn giữ đối tượng,
Thì trái lại tâm sân là sự đẩy ra,
Sự phá hoại, hủy diệt đối tượng.
Sự hung ác, độc hại ... Gọi là Sân.
Sân là một trong ba căn bản phiền não.
Nóng nảy, thô tháo làm cho tâm ta
Và tâm người nóng phừng lên,
Phá hoại Cảnh bất như ý (do tác ý sai lầm).
Sân có nghĩa là sự bất toại nguyện, không
vui, bất mãn, giận dữ, thù hận khi không được vừa lòng hoặc bị xúc phạm. Sân là
nguyên nhân của nhiều hành động ác, gây ra khổ đau cho bản thân và người khác.
Sân cũng là một trong sáu căn tà kiến, làm cho tâm bị mê muội và không nhận ra
chân lý. Để giải thoát khỏi sân, Phật giáo khuyên ta phải tu tâm để đạt tới vô
sân, tức là không nóng nảy, hết giận hờn, biết tha thứ và từ bi.
Sân (Dosa) là không bằng lòng là một cách hiểu đơn giản,
nhưng không đầy đủ. Sân (Dosa) còn có nghĩa là sự bất toại nguyện, sự ghét, sự căm thù, sự tức giận, sự
hờn dỗi, sự ác cảm, sự thù hận v.v… Sân (Dosa) là một trong ba trạng thái tinh thần có hại
trong Phật giáo, cùng với tham dục (Lobha) và ngu si (Moha). Sân (Dosa) làm cho tâm bị rối loạn, không an lạc và luôn muốn tránh xa hoặc hủy diệt
những đối tượng không đáng được ưa thích. Sân (Dosa) là nguyên nhân của sự khổ đau và luân hồi
sanh tử. Để giải thoát khỏi sân (Dosa), Phật giáo khuyên ta phải tu tập tâm từ bi và trí tuệ. Sân (Dosa) được minh họa bằng nhiều ví dụ trong các kinh điển Phật giáo, như con rắn
cắn đuôi con chim trong bánh xe luân hồi, hay con người bị chết vì nước mắt của
mình khi ghen tuông.
Hôn trầm (Thīna) là trạng thái
co rút của tâm.
Co rút lại như lông gà gặp phải lửa.
Hôn trầm được xem là sự đau yếu
Của các sở hữu tâm Thọ, Tưởng và Hành.
Lười biếng làm cho không còn tinh tấn
Cách lui sụt không khéo dùng tâm.
Hôn trầm (Thīna) là trạng thái co rút của tâm, là một trong năm rào cản (nīvaraṇa) trong Phật
giáo, cùng với tham (lobha), sân (dosa), uể oải (thina-middha) và nghi ngờ (vicikicchā). Hôn trầm là sự mất đi sự tinh tấn, sáng suốt và minh mẫn của tâm, dẫn
đến sự lơ đễnh, lười biếng và thiếu chú ý. Hôn trầm là nguyên nhân của sự chậm
tiến trong con đường giải thoát, vì nó làm cho tâm bị bó buộc và không thể nhận
ra chân lý. Để giải thoát khỏi hôn trầm, Phật giáo khuyên ta phải tu tập các
pháp tuệ như chánh niệm, chánh định và chánh giác.
Ngoài ra, hôn trầm cũng có thể được hiểu là một
dạng của rối loạn tâm thần, liên quan đến trạng thái trầm cảm. Trầm cảm là tình
trạng bệnh lý rối loạn cảm xúc biểu hiện bằng dấu hiệu giảm khí sắc, buồn rầu,
giảm thích thú, thường xuyên mệt mỏi, rối loạn giấc ngủ, giảm tập trung chú ý,
có cảm nghĩ là người không xứng đáng, tự ti, mặc cảm, bi quan kèm theo một số
triệu chứng cơ thể thực vật. Trầm cảm có thể được gây ra bởi nhiều yếu tố như
di truyền, môi trường, căng thẳng, áp lực hay các bệnh lý khác. Trầm cảm có thể
được điều trị bằng các phương pháp như thuốc an thần, tâm lý trị liệu hay các
hoạt động tích cực.
Hôn trầm (Thīna) là một trong
năm chướng ngại khi tọa thiền, chỉ cho trạng thái buồn ngủ, mất tỉnh giác, thiếu
tập trung. Hôn trầm có thể do sức khỏe không tốt, lao động quá sức, thân tâm mệt
mỏi, lười biếng, hay do tâm mất chánh niệm, niệm lực yếu dần. Hôn trầm làm cản
trở công phu tu tiến, không thể vào chánh định. Để đối trị hôn trầm, thiền giả
cần gìn giữ thân tâm trong sạch, nghiêm trì giới tịnh, đoạn tham sân si, hành
thiện bố thí, dụng công chuyên nhất niệm Phật hoặc Pháp khác. Khi hôn trầm đến,
thiền giả có thể đứng lên kinh hành, lắng tai ghi nhận câu niệm Phật.
Thụy miên (Middha) Là trạng thái
hèn yếu,
Muội lược của các tâm sở.
Tâm bắt cảnh không tươi tỉnh.
Từ ngữ căn Middh: thiếu khả năng, lười biếng,
Không thích hoạt động, buồn ngủ.
Thụy miên được xem là sự đau yếu của tâm (Citta).
Sự dã dượi hạn chế lộ trình tâm,
Làm chúng giảm từ từ cho đến
Khi chỉ còn lại tâm hộ kiếp.
Tâm lui sụt (buồn ngủ)
Không khéo dùng tâm.
Tâm hộ kiếp theo nghĩa đen có nghĩa là yếu tố
của đời sống. Tâm hộ kiếp duy trì sự liên tục trong một kiếp sống, cho nên những
gì chúng ta gọi là một chúng sanh thì nó liên tục sống từ khoảnh khắc này đến
khoảnh khắc khác. Ðó là chức năng của tâm hộ kiếp.
Thụy miên (Middha) là trạng thái
hèn yếu là một cách hiểu sai lầm. Theo Tự điển Phật học, thụy miên có nghĩa là
sự ngủ, sự buồn ngủ, là trạng thái co rút của tâm, dưới trạng thái lười mệt, chểnh
mảng. Thụy miên là một trong những sở hữu bất thiện, làm cho tâm mờ ám, không
có trí tuệ, không an tịnh và không sáng suốt. Thụy miên cũng là một trong năm
rào cản (nīvaraṇa) trong Phật
giáo, cùng với tham (lobha), sân (dosa), uể oải (thina-middha) và nghi ngờ (vicikicchā). Để giải thoát khỏi thụy miên, Phật giáo khuyên ta phải tu tập các pháp
tuệ như chánh niệm, chánh định và chánh giác.
Phóng dật/ Trạo cử (Uddhacca)
Phóng dật là trạng thái loạn động
Của tâm thức dễ bị cảnh trần chi phối.
Như một đống tro,
Khi ném một hòn đá vào,
Bụi sẽ tung bay lên như thế nào;
Thì khi tâm bị cảnh kích thích,
Phóng dật sẽ khởi lên như thế ấy.
Sự loạn động gọi là Phóng Dật.
Phóng dật là một trong ngũ triền cái (nivarana)
Và được Lạc (Sukha) thay thế trong Sơ thiền.
Trong vài trường hợp đặc biệt,
Phóng dật đồng nghĩa với kiêu mạn.
Không an tịnh,
Không thể an trụ lâu trên một cảnh,
Tâm luôn giao động không khéo tác ý.
Phóng dật là trạng thái loạn động, bồn chồn,
không kiềm chế được tâm thức, dẫn đến sự mất tập trung, mất an định và mất minh
sát. Phóng dật là nguyên nhân của sự chậm tiến trong con đường giải thoát, vì
nó làm cho tâm bị phân tán và không thể nhận ra chân lý. Để giải thoát khỏi
phóng dật, Phật giáo khuyên ta phải tu tập các pháp tuệ như chánh niệm, chánh định và chánh giác.
Ngoài ra, phóng dật cũng có thể được hiểu là
một dạng của rối loạn tâm thần, liên quan đến trạng thái lo âu, căng thẳng hay
hồi hộp. Lo âu là tình trạng bệnh lý rối loạn cảm xúc biểu hiện bằng dấu hiệu sợ
hãi, lo lắng, bất an, rối loạn giấc ngủ, giảm tập trung chú ý, có cảm nghĩ là
người không kiểm soát được cuộc sống, tự ti, mặc cảm, bi quan kèm theo một số
triệu chứng cơ thể thực vật. Lo âu có thể được gây ra bởi nhiều yếu tố như di
truyền, môi trường, căng thẳng, áp lực hay các bệnh lý khác. Lo âu có thể được
điều trị bằng các phương pháp như thuốc an thần, tâm lý trị liệu hay các hoạt động
tích cực.
Phóng dật/ Trạo cử (Uddhacca) là một trong năm triền cái, là những trạng thái tâm lý chướng ngại công
phu tu tập trong Phật giáo. Phóng dật là tâm bất ổn, hay chao động, có liên
quan đến tất cả những tâm bất thiện. Trạo cử là sự lo âu, hối tiếc về những việc
đã làm hoặc chưa làm. Cả hai đều trái với sự thanh tịnh và bình an của tâm.
Hoài nghi (Vicikicchā) là sự nghi hoặc,
Không tin sự thật.
Có 4 nhóm Hoài Nghi:
1. Hoài nghi Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng)
2. Hoài nghi về Tam học (giới - định - tuệ).
3. Hoài nghi về Ba thời
(quá khứ, hiện tại, vị lai)
Hoài nghi về lý duyên khởi.
Nghi ngờ Làm cho lưỡng lự,
Phân vân không thể quyết đoán
Không khéo dùng Tâm.
Hoài nghi là sự nghi hoặc, không tin sự thật,
không tin vào chân lý của Phật pháp. Hoài nghi là nguyên nhân của sự chậm tiến
trong con đường giải thoát, vì nó làm cho tâm bị mê muội và không thể nhận ra
chân lý. Để giải thoát khỏi hoài nghi, Phật giáo khuyên ta phải tu tập các pháp
tuệ như chánh niệm, chánh định và chánh
giác.
Ngoài ra, hoài nghi cũng có thể được hiểu là
một trường phái tư tưởng giáo lý xem xét một cách hệ thống và với thái độ phê
phán về quan niệm rằng tri thức tuyệt đối và sự xác tín là có thể. Hoài nghi giáo
lý đối lập với chủ nghĩa giáo điều triết học - trường phái cho rằng có một tập
hợp nhất định gồm các khẳng định có căn cứ đích xác, hoàn toàn xác tín và chân
thực.
Hoài nghi (Vicikicchā) là sự nghi hoặc
về những điều có liên quan đến chánh pháp, như Đức Phật, lời dạy của ngài, Tăng
Chúng và việc thực tập Giới, Định, Tuệ. Hoài nghi là một trong ngũ triền cái và
là một trong những sở hữu bất thiện trong Phật giáo. Hoài nghi có bản chất là
dao động, biểu hiện là do dự và thái độ phân vân. Nguyên nhân gần nhất của hoài
nghi là sự chú ý không khôn ngoan đến những vấn đề gây nghi ngờ. Hoài nghi trái
với sự tỉnh thức và trí tuệ.
Chánh Niệm Pháp
Trên Pháp (Quán Pháp)
Quán Pháp là:
Tuệ tri vị ngọt, sự
nguy hiểm, sự xuất ly
Tuệ tri duyên khởi, vô
thường, vô chủ sở hữu
Tuệ tri Khổ đế và Tập
đế
Tuệ tri Diệt đế và Đạo
đế.
Theo Phật giáo Nguyên Thủy, tuệ tri là khả
năng nhận thức sâu sắc về bản chất của mọi hiện tượng, đạt được bằng cách tu tập
theo lời dạy của Đức Phật. Tuệ tri có nhiều cấp độ và hướng đối tượng khác
nhau, nhưng có thể chia thành bốn loại chính như sau:
- Tuệ tri vị ngọt, sự nguy hiểm, sự xuất
ly: Đây là khả
năng nhận biết được cái gì là hạnh phúc và cái gì là khổ đau trong thế gian, và
cái gì là cách thoát khỏi vòng luân hồi. Đức Phật đã từng nói rằng: Bất cứ những
gì mang lại vui thích khoái lạc ở thế gian là vị ngọt của thế gian; thế gian là
vô thường, bị ràng buộc với khổ đau, và phải chịu biến hoại, đó là sự nguy hại
của thế gian; và đọan trừ, từ bỏ mọi ham muốn dục vọng của thế gian chính là sự
vượt thoát thế gian.
- Tuệ tri Duyên khởi, Vô thường, Vô chủ sở
hữu: Đây là khả năng nhận thức được nguyên nhân và
kết quả của mọi hiện tượng, cũng như tính không bền vững và không có bản ngã của
chúng. Đức Phật đã từng nói rằng: Tất cả các hiện tượng đều do duyên khởi; do
duyên khởi nên có sự biến đổi; do duyên khởi nên có sự diệt vong; do duyên khởi
nên có sự sinh tử; do duyên khởi nên có sự vui buồn. Tất cả các hiện tượng đều
không tồn tại vĩnh viễn; không tồn tại vĩnh viễn nên không có bản ngã; không có
bản ngã nên không có chủ sở hữu.
- Tuệ tri Khổ đế và Tập đế: Đây là khả năng nhận thức được bốn chân lý cao thượng của Đức Phật, đó
là: Sự khổ (dukkha),
Nguyên nhân của sự khổ (samudaya), Sự
diệt khổ (nirodha) và
Con đường diệt khổ (magga). Đức Phật
đã từng nói rằng: Đây là sự khổ: sinh, lão, bệnh, tử, buồn phiền, than khóc,
đau đớn, uất ức và phiền não; không được sống cùng với người mình yêu quý; phải
sống cùng với người mình ghét; không được mong ước của mình; năm uẩn (khandha)(khối) bị áp bức.
Đây là nguyên nhân của sự khổ: lòng tham ái (tanhā), dục vọng kiếm tìm hạnh
phúc trong các hiện tượng có tính duyên khởi.
Đây là sự diệt khổ: hoàn toàn diệt trừ lòng tham ái, từ bỏ dục vọng, trút bỏ niềm mong mỏi,
không còn say mê hay luyến lưu.
Đây là con đường diệt khổ: Bát Chánh Đạo (ariya aṭṭhaṅgika magga), đó là: Chánh kiến (sammā-diṭṭhi), Chánh tư duy (sammā-saṅkappa), Chánh ngữ (sammā-vācā), Chánh
nghiệp (sammā-kammanta), Chánh mạng (sammā-ājīva), Chánh tinh tấn (sammā-vāyāma), Chánh niệm (sammā-sati) và Chánh định (sammā-samādhi).
- Tuệ tri Diệt đế và Đạo đế: Đây là khả năng nhận thức
được quá trình diệt trừ các phiền não và đạt được giải thoát.
Đức Phật đã từng nói rằng:
Đây là diệt đế: sự diệt trừ của sự ngu muội
và lòng tham ái, sự diệt trừ của các phiền não, sự diệt trừ của các mối ràng buộc,
sự diệt trừ của các mầm mống.
Đây là đạo đế: Bát Chánh Đạo, là con đường
dẫn đến sự diệt trừ các phiền não.
Tuệ tri 37 phẩm đạo đế:
Tứ niệm xứ,
Tứ chánh cần, Tứ như ý
túc, Ngũ căn,
Ngũ lực, Thất giác
chi, Bát chánh đạo.
Tuệ tri Hai loại thực
tại.
Để giải thích theo Phật giáo Nguyên Thủy, tuệ
tri là khả năng nhận thức sâu sắc về bản chất của mọi hiện tượng, đạt được bằng
cách tu tập theo lời dạy của Đức Phật. Tuệ tri có nhiều cấp độ và hướng đối tượng
khác nhau, nhưng có thể chia thành hai loại chính như sau:
- Tuệ tri 37 phẩm đạo đế: Đây là khả năng nhận thức
được 37 phương tiện trợ đạo, là những pháp môn giúp chúng sanh tiến bộ trên con
đường giải thoát. 37 phẩm đạo đế gồm có:
- Tứ niệm xứ: Đây là khả
năng quán xét về bốn khía cạnh của sự tồn tại, đó là: Thân bất tịnh (cái thân
này không sạch sẽ, không bền vững, không hạnh phúc), Thọ thì khổ (sự sống này
luôn gặp khổ đau, phiền não, biến đổi), Tâm vô thường (tâm trí này luôn biến đổi,
không ổn định, không kiểm soát được), Pháp vô ngã (mọi hiện tượng đều không có
bản ngã, không có chủ sở hữu, không có tự thể). Quán xét tứ niệm xứ giúp chúng
sanh dứt trừ sự chấp ngã, chấp pháp, chấp thân, chấp cảnh, và nhận ra tính vô
thường, vô ngã của mọi sự.
- Tứ chánh cần: Đây là khả
năng phát triển bốn loại nỗ lực chánh đáng, đó là: Nỗ lực diệt trừ các phiền
não đã có trong tâm (sammappadhāna), Nỗ lực ngăn chặn các phiền não chưa có trong tâm, Nỗ lực sinh ra các
phẩm chất tốt đã có trong tâm, Nỗ lực duy trì các phẩm chất tốt chưa có trong
tâm. Quán xét tứ chánh cần giúp chúng sanh thanh lọc tâm trí, loại bỏ các uế
nhiễm và nuôi dưỡng các bồ-đề phần.
- Tứ như ý túc: Đây là khả năng phát triển
bốn loại sự hài hoà trong tâm trí, đó là: Như ý túc về sắc (kāyānupassanā-sambojjhaṅga), Như ý túc về cảm giác (vedanānupassanā-sambojjhaṅga), Như ý túc về tâm (cittānupassanā-sambojjhaṅga), Như ý túc về pháp (dhammānupassanā-sambojjhaṅga). Quán xét tứ như ý túc giúp chúng sanh điều hoà tâm trí, không bị quấy
rối bởi các yếu tố bên ngoài hay bên trong.
- Ngũ căn: Đây là khả
năng phát triển năm loại căn bản của tâm trí, đó là: Căn tín (saddhindriya), Căn năng lực(Tấn) (vīriyindriya), Căn niệm (satindriya), Căn định (samādhindriya), Căn tuệ (paññindriya). Quán xét ngũ căn giúp chúng sanh củng cố tâm trí, không bị dao động bởi
các thử thách hay cám dỗ.
- Ngũ lực: Đây là khả
năng phát triển năm loại lực mạnh của tâm trí, đó là: Lực tín (saddhābala), Lực năng lực(Tấn) (vīriyabala), Lực niệm (satibala), Lực định (samādhibala), Lực tuệ (paññābala). Quán xét
ngũ lực giúp chúng sanh vượt qua các trở ngại, không bị nản lòng hay sợ hãi.
- Thất giác chi: Đây là khả năng phát triển bảy loại giác ngộ,
đó là: Giác chi về sự quán xét (satisambojjhaṅga), Giác chi về sự phân tích (dhammavicayasambojjhaṅga), Giác chi về sự năng lực (vīriyasambojjhaṅga), Giác chi về sự vui sướng (pītisambojjhaṅga), Giác chi về sự thanh thản (passaddhisambojjhaṅga), Giác chi về sự định tâm (samādhisambojjhaṅga), Giác chi về sự trí tuệ (upekkhāsambojjhaṅga). Quán xét thất giác chi giúp chúng sanh đạt được sự tỉnh thức, không bị
mê muội hay lầm lạc.
- Bát chánh đạo: Đây là khả năng phát triển tám loại hành vi
chân chánh, đó là: Chánh kiến (sammā-diṭṭhi), Chánh tư duy (sammā-saṅkappa), Chánh ngữ (sammā-vācā), Chánh nghiệp (sammā-kammanta), Chánh mạng sống (sammā-ājīva), Chánh tinh tấn (sammā-vāyāma), Chánh niệm (sammā-sati) và Chánh định (sammā-samādhi). Quán xét bát chánh đạo giúp chúng sanh tuân theo lời dạy của Đức Phật,
sống một đời cao thượng, hạnh phúc, và tiến đến giải thoát.
- Tuệ tri hai loại thực tại: Đây là khả năng nhận thức
được hai loại hiện tượng khác biệt, đó là:
- Thực tại tương đối: Đây là những hiện tượng
có tính duyên khởi, vô thường, vô ngã, không có tự thể, không có bản ngã. Những
hiện tượng này chỉ tồn tại trong phạm vi của quan niệm và ngôn ngữ, không phản
ánh được bản chất thật sự của sự vật. Những hiện tượng này gây ra sự mê muội và
phiền não cho chúng sanh, khiến họ luân hồi trong ba cõi. Ví dụ như cái thân,
cái tâm, cái ngã, cái nhân... Đều là những hiện tượng thuộc thực tại tương đối.
- Thực tại chân thật: là những hiện tượng có tính vô vi,
vô biên, không sinh không diệt, không có duyên khởi, không có biến hoá. Những
hiện tượng này vượt ra khỏi phạm vi của quan niệm và ngôn ngữ, không bị ràng buộc
bởi các luật lệ nhân quả hay sinh tử. Những hiện tượng này là đối tượng của tuệ
tri, là nguồn gốc của sự giải thoát và niết bàn. Ví dụ như chân lý vô thường (anicca), chân lý vô ngã
(anattā), chân
lý khổ (dukkha), chân
lý diệt khổ (nirodha), chân
lý đạo đế (magga) đều là những hiện tượng thuộc thực tại chân thật.
Chữ vô vi theo Phật học có nghĩa là không can thiệp, không gây ra nghiệp, không bị
vướng bận bởi nhân duyên hay điều kiện. Vô vi là một trong những đặc điểm của
Niết Bàn, cõi giải thoát khổ đau và sanh tử. Vô vi cũng là một phương pháp thiền
định, giúp người thiền giả tịnh hóa tâm trí, thấu triệt chân lý và đạt được
giác ngộ.
Chữ vô biên theo Phật học có nghĩa là không có giới hạn, không có ranh giới, không
có đầu cuối. Vô biên là một trong những đặc điểm của chân lý Phật pháp, biểu hiện
sự rộng lớn, sâu xa và toàn diện của giáo lý Phật đà. Vô biên cũng là một trong
những phẩm chất của tâm trí giác ngộ, thể hiện sự thông minh, sáng suốt và từ
bi của Phật và Bồ tát. Vô biên cũng là một trong những mục tiêu của tu hành Phật
pháp, nhằm đạt được sự giải thoát khỏi mọi sự gò bó, hạn chế và phiền não.
Là một phương pháp thiền tập đề cập đến quan
sát và nhận thức dường như tất cả mọi thứ xung quanh ta. Quán Pháp giúp chúng
ta đạt được sự hiểu biết sâu sắc hơn về thực tại, giúp tăng cường khả năng quan
sát và tập trung tình trạng hiện tại và tăng cường sự nhận thức của chúng ta về
sự tồn tại của mọi vật chất, hiện tượng, và quá trình trong vũ trụ.
Cách thực hiện Chánh Niệm Pháp Trên Pháp là
chúng ta quan sát mọi vật chất và hiện tượng xung quanh ta. Chúng ta không chỉ
nhìn thấy chúng, mà còn nhận thức và quan sát chúng một cách sâu sắc, để tìm hiểu
về bản chất vật chất và quy luật tự nhiên mà chúng tuân theo.
Quán Pháp giúp chúng ta tập trung vào sự tồn
tại và quan sát mọi thứ xung quanh ta. Khi tâm trí bị phân tán bởi những suy
nghĩ và căng thẳng, chúng ta kích hoạt sự chú ý của mình và chuyển sự quan tâm
trở lại những hiện tượng xung quanh và cố gắng nhìn vào chúng một cách bình thản,
không phán xét và không để tâm đến những suy nghĩ của mình.
Quán Pháp giúp chúng ta đạt được một trạng
thái tĩnh lặng, không phán xét và không gắn bó với bất kỳ thứ gì. Thông qua việc
quan sát và hiểu biết sự tồn tại của mọi vật chất và hiện tượng, chúng ta hạn
chế được tác động của sự đoán trước và định kiến đến tâm trí và giữ được trạng
thái thanh thản.
Khi chúng ta thực hiện thường xuyên, Quán
Pháp giúp chúng ta phát triển mối liên kết giữa tâm trí, cơ thể và vũ trụ bên
ngoài, giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về sự liên kết của mọi thứ trong vũ trụ
này. Chúng ta sẽ có khả năng hiểu được tầm quan trọng của mỗi thứ và giá trị của
nó. Chúng ta sẽ bắt đầu cảm nhận được sự tuyệt vời của vũ trụ ngay bên cạnh
chúng ta và cảm thấy hạnh phúc và tĩnh lặng.
Thiền tập Quán Pháp giúp chúng ta phát triển
sự nhận thức sâu sắc về thực tại và cải thiện khả năng tập trung và quan sát.
Chúng ta có thể nhìn nhận và hiểu biết rõ hơn về sự tồn tại của mọi thứ trong
vũ trụ, từ đó cung cấp cho chúng ta sự tiếp cận với một kết nối sâu sắc hơn với
tất cả mọi vật chất, hiện tượng và quá trình xảy ra trong vũ trụ này.