MOHA nghĩa vắn tắt là Si mê. Si mê là tiếng thông dụng nhất trong Phật giáo, vì vậy nên
tiếng này có nhiều ý nghĩa, không như những tiếng thông thường. Si mê có nghĩa
là ngu dại, tối tăm, không hiểu và không phân biệt phải quấy, không nhận thức
được sự thật (là Vô thường, Khổ não và Vô ngã), không có trí tuệ, mờ tối, không
sáng suốt, hiểu lầm.
TRẠNG THÁI CỦA SI MÊ
Si mê thật là khó giải hơn tham lam
và sân hận. Vì si mê thuộc về sự không thông hiểu. Ta có thể phân biệt được sự
thông minh hơn là si mê dốt nát. Vì ta có thể chia sự thông hiểu ra từng ngành
chuyên môn, từng hạng, như hiện giờ có hạng tú tài, cử nhân v.v… Nhưng về sự
dốt nát ta không thấy có hạng dốt thứ nầy, hạng nọ, mà cũng không thấy có ai
đứng ra cấp bằng, hay chứng nhận rằng người nầy ngu dại dốt nát hơn người kia.
Sự thể ấy ví cũng như ánh sáng có
thể chia ra từng hạng, như hạng 10 ánh nến, hạng 20 ánh nến v.v… nhưng không
thấy có chia ra ngu dốt hạng A, hạng B v.v… Ta có thể dùng tiếng tối đen, tốt
mịt v.v… nhưng không chia hạng tối ấy ra sao.
MOHA: SI MÊ, LÀ GÌ?
Có người hiểu rằng: Si mê là không
thông hiểu. Hiểu như thế là sai lầm. Nếu nói si mê là không thông hiểu thì trên
vũ trụ này không có một người nào thông hiểu, vì không có vị trí thức nào thông
hiểu tất cả các ngành, các nghề được. Vị nào thật thông minh, thì cũng chỉ
chuyên môn về năm ba ngành là cùng.
Nếu muốn biết người si mê hay không,
ta nên xem ở nơi hành động của người ấy, chớ không thể dựa vào cấp bằng chuyên
môn mà cho rằng người này thông minh, người kia ngu dốt.
Si mê đây không phải là sự không thông
hiểu, mà cũng không phải là sự thông hiểu. Người có cấp bằng cao thông thái hay
là người ngu dốt nát cũng không gọi là si mê được. Si mê hay không, là do nơi
người biết áp dụng sự hiểu biết của mình đúng chỗ đúng lúc. Sự thật người có
học thông Tam tạng chăng nữa mà làm tội lỗi cũng gọi là si mê.
Ta hãy xem lại thân thể ta có tay để
làm việc, chân để đi, tai để nghe, mắt để xem, miệng để nói v.v… Mỗi cơ thể có
khả năng riêng của nó, ít hay nhiều. Tâm ta có khả năng là biết điều khiển cơ
thể bên ngoài, làm việc đúng theo khả năng của nó. Ví như khi lái xe, tay ôm
lái xe, hai chân giữ lấy thắng và săng v.v… Ta không thể đang lái xe mà đánh
đàn được, hay nghĩ xao lãng chuyện gì khác được. Tâm phải dùng cơ thể nầy đúng
chỗ mới đem lợi ích cho ta. Nếu tâm điều khiển thân này sai lạc, thì tức nhiên
sẽ bị tai hại. Khi làm sai phận sự như vậy gọi là si mê.
Theo Phật giáo, thì tâm là vật biết
thiện, ác, tội phước. Khi tâm bỏ thiện làm ác, hay là làm tội lỗi, là vì trong
khi ấy tâm bị si mê che án làm cho tâm tối tăm, không phân biệt được thiện ác.
Khi tâm đã làm điều ác, mặc dầu người ấy là bực có tiếng gọi là thông thái,
người có tâm ấy gọi là người si mê.
Hỏi: Tại sao Phật giáo phê phán gắt gao sự thông hiểu và không
thông hiểu là si mê, là một phiền não rất vĩ đại, là cội căn của các phiền não
khác?
Đáp: Vì nguyên nhân làm cho người thiện trở nên ác do nơi sự
hành động không hợp pháp, không đúng theo lẽ phải. Người không thông về các
ngành chuyên môn khác hơn sở năng của mình, không gọi là si mê, vì người ấy
không làm chuyện sái với phận sự mình, ý tôi muốn nói làm ác. Ví dụ, trong thế
gian này biết bao nhiêu người không thông hiểu luật, mà đâu có phạm lỗi hết, vì
mặc dầu không hiểu luật mà không làm sai luật, nên không gọi người thế ấy là
người si mê. Nếu một ông trạng sư mà làm sai luật mới gọi là si mê.
Ba pháp mới xem qua thì gần giống
nhau là:
1.- AVIIJJÀ:
Vô minh.
2.- MOSA: Si mê.
3.- MICCHÀDITITHI: Tà kiến.
Nhưng xét kỹ thì ba pháp ấy vẫn khác
rất xa.
1.- AVIIJJÀ: Vô minh, nghĩa
là sự không hiểu biết, ý nói không hiểu biết pháp Tứ Đế, là nguyên nhân làm cho
chúng sanh luân hồi. Người vô minh ví như người ở trong rừng, không biết và
không tìm được con đường đi khỏi ra rừng, cuối cùng chịu chết trong rừng. Sự
không hiểu rõ đây là nền tảng của tâm. Tất cả chúng sanh đều có Vô minh. Khi
đắc quả A-la-hán, hay Độc giác Phật hoặc Chánh đẳng Chánh giác thì vô minh mới
tận diệt.
2.- MOHA: Si mê, ý nói đến sự
phân biệt được tội và phước, thiện và ác. Si mê nầy không phải là nền tảng của
tâm mà chỉ là sự lầm lạc của tâm, bởi không dùng trí tuệ làm nền tảng để quán
xét cho chu đáo rồi mới thực hành.
3.- MICCHÀDITTHI: Tà kiến. Sự
hiểu biết sai lầm, như nghĩ làm tội phước, không có quả, chế`tội lỗi rồi mất
không sanh, rồi thật hành theo ý niệm của mình.
Người gọi là vô minh hay si mê, có
thể ngồi nghe những lời giảng dạy của các bực tri thức để vâng giữ hành theo,
hay ít nữa cũng có thể phục thiện được. Còn người tà kiến đã không nghe, mà còn
tự phụ là mình nghĩ đúng và hành đúng, chấp chắc vào một chuyện mà mình đã nghĩ
trước.
Người không hiểu và người hiểu sai
lầm vốn khác nhau. Vì người không hiểu có lúc sẽ hiểu, còn người hiểu sai lầm
thì khó mà sửa sai được.
Vô minh và si mê là phiền não thật
sự, vì đó mà tâm ta nhơ đục, nhưng chưa có hành động, nên chưa gọi là nghiệp.
Tà kiến mới thật là tâm nghiệp.
Tóm lại, thì Vô minh là nền tảng của
tâm; vì tâm bị vô minh làm nền tảng, nên si mê; vì tâm si mê, nên có tà kiến.
Khi tâm tà kiến mới hành động theo sự hiểu biết của nó, đó là tạo nghiệp.
Ba trạng thái ấy liên quan với nhau,
có thể ví dụ như người kia mắt làng, nhằm đêm ba mươi trời rất tối, mà họ vẫn
không chịu ở yên một chỗ, cứ đi nơi nầy nơi nọ bị cây đụng vào mắt, càng làm
cho mắt đau nhức. Người làng mắt đó ví như tâm có vô minh làm nền tảng. Si mê
ví như đêm ba mươi, càng làm cho người ấy mờ thêm , nhưng đây chỉ mờ thêm theo
trường hợp, nếu ban ngày thì còn thấy mờ mờ. Còn tà kiến ví như sự di chuyển
của người mờ trong đêm 30 vậy, tà kiến là nghiệp, tức là sự hành động.
TAI HẠI CỦA SI MÊ
Trong tam độc, si mê là phiền não
quan trọng hơn hết, vì tham lam và sân hận sanh lên đều do nơi si mê làm chủ,
khiến tham lam hay sân hận hành động mãnh liệt. Khi không có si mê phụ vào, thì
không đến đỗi đi tới chỗ cực kỳ hung ác. Còn riêng về si mê, nó tự phát sanh
lên một mình, không cần có tham lam, hay sân hận phụ vào. Như khi đang ngồi lễ
Phật, tâm ta phóng túng hoặc trong khi tham thiền tâm ta xao lãng hay hôn trầm
đều do nơi si mê mà ra cả. Vì vậy nên chỉ có A LA HÁN quả mới hoàn toàn diệt tận
được phiền não này.
Si mê có nhiều năng lực tác hại:
1.- Khi ta
thương, si mê nhập vào làm cho ta mù quáng, quên mình có thể làm tội lỗi được.
2.- Khi giàu
có, si mê xâm nhập vào, làm cho ta mê mệt cố chấp lấy của, quên già đau chết,
có nhiều càng tạo cho nhiều thêm lên, không hề biết đủ.
3.- Khi ta có
quyền chức lớn, si mê xâm nhập vào làm cho càng mê theo quyền chức ấy khiến làm
những việc không cao đẹp.
4.- Khi ta
giận si mê nhập vào làm cho ta mù quáng có thể giết hại người.
Nếu ta đã chán mùi thế tục, muốn an
tịnh tìm vào nơi tĩnh mịch để tham thiền niệm Phật, thì ta sẽ thấy tâm si mê
phát sanh như: Phóng tâm, buồn ngủ, bần thần, lười biếng, giải đãi, lần lựa hẹn
giờ này giờ kia v.v…
Trong 16 điều phiền não, lòng si mê
chiếm hết 12 điều.
Dưới đây tôi xin giảng sơ lược những
phiền não thuộc về si mê và các pháp đối trị.
MAKKHA: BỘI ƠN
MAKKHA có nghĩa là bội ơn. Ơn đây
chỉ việc làm của người đã giúp đỡ ta trong trường hợp nào chẳng hạn, mặc dầu
bằng một bát cơm, một chén nước. Người biết ơn không bao giờ dám nghĩ tới sự
quên ơn và hằng tìm phương thế đền đáp, cho xứng đáng, mặc dầu ơn đức ấy có ít
mà ta đã trả rồi cũng vẫn thấy rằng chưa đủ.
Đức Phật dạy, người khó kiếm được
nhất trong tam giới này là người biết ơn. Người dễ kiếm nhất là người bội ơn.
Trong đời này, người bội ơn quả thật nhiều, không sao kể xiết. Hơn nữa Phật còn
dạy cho ta thấy con người vốn có rất nhiều si mê hơn các pháp ác khác.
Người biết ơn có thể chia ra làm ba
hạng.
1.- Hạng
cao thượng, biết cúng dường người có công ơn như cha, mẹ, thầy, các bậc cao
quí như chư Phật và chư Thánh nhân.
2.- Hạng trung, là đền đáp công ơn người đã giúp mình.
3.- Hạng thấp là nhớ công ơn người đã giúp mình, nhưng không nghĩ tới
chỗ đền đáp.
Người bội ơn chia ra làm ba hạng:
1.- Hạng đê
hèn nhất, không nghĩ đến cúng dường công ơn như cha mẹ, thầy tổ, Phật, chư
Thánh nhân, mà còn khinh khi hay làm hại, Phạn ngữ gọi là MAKKHA: bội ơn.
2.- Bực trung, không biết ơn, mặc dầu có cho hay giúp đến mực độ nào người
ấy cũng không cần biết, Phạn ngữ gọi là AKATTANNU: không biết ơn.
3.- Hạng đê tiện, không trả ơn, không bao giờ nghĩ đến sự trả ơn ai hết,
Phạn ngữ gọi là AKATAVEDÌ: không đáp ơn.
Người thuộc về hạng bội ơn này ví
như là một tảng đá, ta không thể nào trồng một thứ giống ngũ cốc nào lên đó
được. Tâm người ấy xấu không sao nói cho hết được.
Phương pháp diệt Bội ơn
Nếu ta muốn diệt phiền não, thì ta
nên tìm tận nguồn gốc của nó. Nguồn gốc của bội ơn là si mê thì ta nên dùng trí
tuệ để diệt si mê. Vì người có trí tuệ không bao giờ quên ơn người, hằng suy
nghĩ thấy cái hại của sự bội ơn, là đi vào bốn đường ác đạo. Theo sau trí tuệ
là hằng biết ơn và cố trả ơn KATTANNÙ KATAVEDÌ.
PALÀSA: ĐEM MÌNH SÁNH VỚI BỰC CAO NHÂN
Đây cũng là một phiền não tai hại,
hôi hám, ai ai cũng chán ghét, nhưng trong thâm tâm của chúng sanh, ai cũng có
dầu ít hay nhiều. Tại sao? Vì nó thuộc vào tâm si mê mà tâm si mê là chúa tể
của các tâm khác.
Sở dĩ người ta đem mình sánh với các
bực cao nhân là vì tưởng rằng mình cũng như người cao nhân, giá trị của mình
cao bằng người cao nhân, nguyên nhân của tâm trạng ấy là: Biết rằng ta không
bằng người ấy.
Nhưng cố khoe khoang hay làm ra
người có tài bằng người mình muốn sánh, hoặc nói bằng lời.
Tai hại của sự "Đem mình sánh
với các bực cao nhân"
Là các bực trí thức không gần, bạn
lành cũng xa lánh, không học thêm được những gì hết nhứt là phương pháp diệt
phiền não. Vì người nầy nặng si mê, khó giác ngộ được pháp giải thoát. Nói tóm
lại là người thường đem mình sánh với các bực cao nhân thì thường hay bị MẤT:
- Mất những
pháp lành.
- Mất bạn lành.
Phương pháp diệt "Đem mình sánh
với các bực cao nhân"
Đem mình sánh với bực cao nhân là
một phiền não làm cho tâm người mờ tối, không nhìn thấy trời cao đất rộng, cũng
ví như chó chưa hề thấy cọp, tưởng cọp là thú bốn chơn không có gì đáng sợ.
Người bị phiền não nầy che ám làm
cho tâm mờ tối, thì nên dùng trí tuệ mới có thể đối trị được. Sau trí tuệ nên
có pháp là ATTANNŨTÃ, nghĩa là biết mình, ý nói người luôn luôn biết rõ bản
thân mình, đừng nghĩ ai cũng bằng mình. Khi ta không biết chính bản thân của ta
ra thế nào, thuộc hạng nào, nên mới đem mình sánh với bực cao nhân.
ISSÀ: GANH TỴ
Ganh tỵ là một phiền não, khi thấy
người ta được lợi hay được cấp trên khen ngợi, hoặc được thăng chức rồi tỏ ra
ganh ghét. Đây là phiền não thuộc về hạng si mê, nó hằng làm cho tâm bực bội
khó chịu.
Muốn hiểu rõ lòng ganh tỵ, tôi xin
chia ra làm ba phần là: Trạng thái của ganh tỵ, tai hại của sự ganh tỵ và
phương pháp diệt trừ ganh tỵ.
Trạng thái của Ganh tỵ
Người muốn xem cho rõ ganh tỵ hãy
xem xét hai thành phần là người ganh tỵ và sự ganh tỵ. Như đã giải ở trên người
thấy kẻ khác được việc tốt lành mà tỏ ra khó chịu, đó là người ganh tỵ. Còn sự
ganh tỵ là sự hành động của người ấy, là khi thấy người được việc tốt lành,
không thể nhịn chịu được sự bực tức nên nói ra miệng, như chỉ trích hay phê
bình hoặc đem dĩ vãng của người ta nói xấu.
Người ganh tỵ ít thì thấy lòng mình
khó chịu khi nghe thấy biết người khác được lợi lộc quyền chức. Người ganh tỵ
hạng trung bình thì khi nghe thấy người lợi lộc quyền chức, không tỏ vẻ hoan
nghinh mà tỏ vẻ khinh khi nhưng không nói ra. Người ganh tỵ tuyệt đối là người,
khi nghe hoặc thấy người khác được lợi ích v.v…tỏ ra thái độ khinh thị mà còn
chỉ trích đủ phương diện.
Tai hại của sự Ganh tỵ
a.- Ganh tỵ làm hại sự an vui.
Phàm người có tánh ganh tỵ ít được an vui vì luôn luôn thấy hay nghe thấy người
được lợi lộc quyền chức v.v… thì thấy lòng khó chịu, hay khổ lòng.
b.- Ganh tỵ làm mất quyền chức và
thanh danh. Phàm người ganh tỵ ít có bạn lành hay người dưới quyền mình ca
tụng khen ngợi, trái lại còn chỉ trích. Như thế thanh danh và quyền chức ngày
càng tiêu tan hết. Nếu người ấy là người ở cùng một xóm chắc chắn ít ai dám gần
và làm bạn.
Phương pháp diệt trừ Ganh tỵ
Muốn diệt trừ ganh tỵ chỉ có pháp
HỈ. Vì thiện pháp hằng vui vẻ và hoan hỉ đến mọi người được an vui và hằng cầu
xin cho người được an vui, hỉ là pháp đối trị rất có hiệu lực để trừ lòng ganh
tỵ.
Hỉ có nhiều trạng thái sau đây:
1.- Hỉ có sự
vui vẻ hay hoan hỉ với mọi người, ý nói hỉ thường hoan hỉ với người được an vui
hạnh phúc và hằng cầu xin cho chúng sanh được may mắn.
2.- Hỉ có sự
không ganh tỵ là phận sự, nghĩa là không bao giờ ganh tỵ khi thấy người được
hạnh phúc.
3.- Hỉ có sự
diệt trừ buồn bực trong lòng mình và cho kẻ khác, đó là quả.
4.- Hỉ có sự
thấy của người khác như của mình là nhân sanh. Ý nói rằng người có tâm hỉ thấy
của cải của người khác cũng như của cải của mình, nghĩa là, có tâm hỉ hằng
trông nom săn sóc của cải của người khác như của cải của mình, không hề muốn
làm hại của cải ai cả.
Người có tâm hỉ là người không bao
giờ nghĩ tới ganh tỵ, tâm hỉ là tâm làm cho người an vui, không có oán thù, oan
trái và có nhiều bạn lành, bực trí thức hằng ngợi khen. Khi người có pháp này
trong tâm thì chư Thiên và nhân loại hằng kính nể. Đây là một trong Tứ Vô lượng
tâm, hằng có trong tâm của chư Phật, chư Thánh nhân và các đức Bồ tát.
MACCHÀRIYA: BỎN SẺN
Bỏn sẻn là một phiền não, Đức Thế
Tôn thường nhắc nhở chúng sanh nên diệt trừ, tuy là một chi phụ thuộc của si mê
nhưng cũng đem lại hậu quả không nhỏ. Trạng thái của bỏn sẻn là không bao giờ
hi sinh vật gì của mình cho kẻ khác hoặc cho quần chúng, chẳng hạn như giúp cho
đồng bào lúc bị tai nạn.
Xin quí vị nhận xét cho kỷ thế nào
là bỏn sẻn theo hai điều dưới đây.
1.- Tiết
kiệm. Người biết cách tiêu sài tiền của, chẳng hạn khi nhận thấy không nên
bỏ vật này vì nó còn dùng được hay không nên sắm vật kia, vì chưa cần dùng đến.
Người tiết kiệm khi cần giúp đỡ quyến thuộc hay quần chúng thì không hề tiếc
tiền của. Như thế không phải là bỏn sẻn mà là tiết kiệm.
2.- Phung
phí. Người xài tiền một cách vô ích, xài vì cho bản thân mình, dầu tốn kém
nhiều cũng chẳng sao, nhưng không khi nào hy sinh đồng trinh cắc bạc cho người
nào ngoài mình ra, có khi chính quyến thuộc mình cũng chẳng cho. Cũng có hạng
người cho chính mình cũng không dám xài, mặc dầu có thèm món nào cũng vẫn nhịn,
để tiền coi thôi. Hai hạng người này thuộc về hạng bỏn sẻn, keo kiệt.
Tai hại của Bỏn sẻn
Bỏn sẻn hằng làm cho người lạnh lạt
đối với đời. Vì người bỏn sẻn không bao giờ biết thương tiếc ai cả, mặc dầu là
quyến thuộc. Tâm bỏn sẻn khiến cho trong kiếp này con người phải cô độc, không
thân thích họ hàng, vì không ai ưa mến, thậm chí khi có tai nạn cũng không ai
giúp đỡ cho. Nếu nói về kiếp vị lai thì tội ít nhất là sanh làm ngạ quỉ (quỉ đói),
nếu sanh làm người thì là người nghèo khó ăn xin, không họ hàng thân thuộc.
Pháp trừ Bỏn sẻn
Như đã biết bỏn sẻn là một nhánh của
si mê, thì phương pháp để diệt trừ nó là trí tuệ. Người dùng trí tuệ quan sát
thấy tai hại của bỏn sẻn, và nghĩ thấy thương hại người bị tai nạn hay nghèo
khó mà giúp đỡ ít nhiều tùy theo của mình đã có; lại cũng nên suy nghĩ cho thấy
rõ là khi ta chết, ta không thể đem gì theo ta được mặc dầu là thân mình, thì
của cải tài sản đối với ta có ích gì, có đem theo được chăng là tội và phước.
Vì vậy nên người trí tuệ mới có thể dùng pháp CÀGA: Dứt bỏ, ý nói dứt bỏ bỏn
sẻn, đem của ra bố thí cho chúng sanh. Sự bố thí là một nết hạnh đáng khen, vì
đó là con đường đi của các bực thánh nhân, nhất là Phật.
MÀYÀ: XẢO TRÁ
Phạn ngữ Màyà có nhiều nghĩa khác
nhau:
1.- Màyà có
nghĩa là duyên
2.- Màyà có nghĩa là ra dấu làm cho người biết điều mà mình muốn nói ra.
3.- Màyà có nghĩa xảo trá hay thủ đoạn bất chánh.
Nghĩa thứ nhất ngụ ý chỉ người có
duyên, như nói có duyên, cười có duyên v.v…
Nghĩa thứ nhì tỏ ra bằng cử chỉ, để
người khác biết ý của mình muốn nói gì, như liếc mắt, bậm môi, v.v…
Nghĩa thứ ba ngụ ý nói về thủ đoạn
xảo trá của con người, đây mới thật là phiền não. Xảo trá hay thủ đoạn này
thường phô bày, làm cho người khác quên mình, tin theo và bị lường gạt, của cải
hoặc những gì khác nữa, lắm khi phải mất mạng vì thủ đoạn của người xảo trá ấy.
Nói cho rõ, thì xảo trá là một thủ
đoạn của người muốn lường gạt, bày làm cho người kia tin chắc vào, rồi giao cho
những gì mà người xảo trá đòi hỏi.
Vậy chúng ta nên thận trọng. Nhiều
khi thấy người ta đối với mình thành thật, nhưng bên trong thật là sân độc, như
sự tích cò và cá sau đây:
Ở nơi bưng nọ có nhiều cá tôm cua
còng. Có một con cò thường đến để bắt cá ăn, nhưng không được như ý, vì cá tôm
nơi ấy đều biết cò là một sát tinh của chúng. Nhân dịp lâu ngày không mưa cò
mới đứng cú rũ bên bưng tỏ vẻ buồn, cá đến gần cũng không cần bắt ăn, cá thấy
thế mới làm lạ hỏi rằng: "Tại sao hôm nay ngươi không ăn cá? ."
Cò đáp: "Ta lấy làm buồn và
thương hại chúng bây, cho chúng bây biết rằng, trời sắp hạn, nước trong bưng sẽ
khô, chúng bây sẽ chết hết, ta không biết phương thế nào cứu vãn tình hình
này."
Bầy cá tôm nghe vậy lấy làm kinh
khủng bu lại hỏi rằng: "Vậy chúng tôi phải làm sao? Đi ở đâu bây
giờ?"
Cò làm bộ suy nghĩ hồi lâu nói rằng:
"Ta đi kiếm ăn có gặp một cái hồ trên núi Hi Mã Lạp Sơn, nơi ấy có nước
trong quanh năm, không bao giờ sợ khô cạn, chúng bây có thể đến ở yên không tai
hại gì hết".
Bọn cá hỏi: "Vậy làm sao chúng
tôi đến nơi ấy được?"
Cò đáp: "Đây mới là một vấn đề
nan giải, nhưng ta có thể lần lượt tha chúng bây đến đó."
Khi ấy có một con cá nói:
"Chúng tôi làm sao tin cò được?"
Cò nói: "Có gì khó, ta đem một
con đi đến nơi đó, để coi cái hồ ấy, rồi đem con ấy về thông tin lại cho chúng
bây biết."
Trong khi ấy có một con cá hy sinh
đi. Cò cũng đem con cá ấy đi tới một cái hồ to lớn mát mẻ, rồi lại đem cá ấy
trở về. Cá ấy mới thuật chuyện lại cho đàn cá nghe, tất cả cá đều tin như lời,
nên tranh nhau xin cò đưa đi. Như vậy lần hồi bao nhiêu cá trong bưng ấy đều
vào bụng cò.
Ngày chót chỉ còn một con cua. Cò ta
cũng muốn ăn luôn, nên hỏi cua bằng lòng đi không? Cua bằng lòng đi với điều
kiện là một càng kẹp cổ cò còn một càng kẹp mỏ cò. Cò bằng lòng vì nó tính rằng
khi để cua xuống nó lại mổ ăn liền.
Khi cò ta bay tới một tảng đá, nó
bèn để cua xuống, cua không bằng lòng xuống mà càng kẹp chặt vào cổ và mỏ cò.
Cò không biết phải làm sao nên đành đưa cua về chỗ cũ. Cua không tha chết cho
cò, mà kẹp cổ cò chết luôn.
Túc sanh truyện này có luận rằng đây
là một ngón xảo trá mà người đời hằng lầm tin theo, nên mắc phải.
Tích nầy cho ta thấy rõ rằng người
xảo trá, dầu khôn ngoan đến đâu, cũng có ngày thất bại như cò vậy.
Tai hại của sự Xảo trá
Như ta đã thấy trong tích con cò,
người xảo trá không sao tránh khỏi tai hại như cò. Người xảo trá hằng hay mất
lợi, là vì ai ai cũng biết người ấy xảo trá thì không khi nào tin cậy và được
giao phó công chuyện cho.
Phương phá trừ Xảo trá
Đức Phật dạy muốn trừ xảo trá thì
cần phải tu pháp Chân-Thật, bắt đầu nên cố thọ trì giới nói dối cho trong sạch,
rồi lần lần phát nguyện giữ lấy sự chân thật trong lòng mình nguyện là không
bao giờ lừa dối ai. Khi đã hứa với lòng mình thì thực hành không màng trở ngại.
Người cố hành pháp nầy thì sự lừa dối xảo trá từ từ mất dần và chừng ấy ta mới
thắng nổi xảo trá trong thâm tâm ta.
SÀTHEYYA: KHOE KHOANG
SÀTHEYYA có nghĩa là khoe những gì
mà mình không có, mà nói thành có, hay có ít mà muốn khoe cho có nhiều, với tác
ý là muốn cho người đời kính nể mình. Ít nhất là làm cho người khác không dám
coi thường mình.
Tai hại của Khoe khoang
Người đời thường hay khoe, nhưng họ
không nhận thấy cái hại của sự khoe khoang ấy. Chúng ta hãy để ý coi, người
khoe khoang chỉ lòe được người thường thôi, chớ không khi nào lừa được bực trí
thức vì các bực trí thức nhận thức thấy rõ rằng người khoe khoang không khác
nào cái thùng rỗng lăn đi tiếng kêu to, nhưng kỳ thật là không có gì bên trong
hết.
Người khoe khoang là người hay nói
nhiều, nhưng những lời nói ấy không có bổ ích vào đâu hết, dầu là cho bản thân
họ, ví như bọt sà phòng, nghĩa là khi ta càng nhồi quần áo nhiều chừng nào thì
bọt nhiều chừng ấy, những bọt ấy không có nước bên trong chỉ có không khí thôi,
cũng như lời nói của người khoe khoang không có giá trị, chỉ làm tốn hơi mà
thôi.
Tóm lại là người hay khoe khoang ở
những nơi nào cũng thường đem tai hại đến nơi đó.
Phương pháp trừ Khoe khoang
Người khoe khoang là người không
biết rõ bản thân mình là người thuộc hạng nào; khoe khoang như vậy hằng có tai
hại. Cần phải có pháp ATTANNÙTÀ nghĩa là biết mình, ý nói biết hạng người của
mình, giai cấp của mình, học lực của mình v.v… khi biết như thế thì không hề
dám khoe khoang.
THAMBLA: CỨNG ĐẦU
Phạn ngữ THAMBHA (cứng đầu) có nhiều
nghĩa khác nhau. Nếu là danh từ thì Thambha nghĩa là cột nhà, nếu là động từ
thì nghĩa là giúp đỡ, chống đỡ, xét về từ ngữ thì tiếng Thambha không thấy có
gì quan trọng hay hư hại gì. Nhưng khi làm hình dung từ của tâm, thì Thambha có
ý là cứng đầu, hay có nghĩa là làm cho tâm cứng, không chịu khép vào khuôn khổ
của lời chỉ giáo của thầy tổ, cha mẹ. Vì vậy nơi đây tôi xin dịch Thambha là
cứng đầu.
Tâm chúng ta có thể trở nên thiện ác
tùy theo hoàn cảnh bên ngoài đưa đến. Hoàn cảnh bên ngoài cũng như phân bón cây
cho tốt, hay chất độc làm hại cây. Phàm người cứng đầu hay chán với lời giảng
dạy của các bực trí thức, cha mẹ. Ta có thể dạy tâm ta trở thành lương thiện,
do nhờ siêng năng và dễ dạy, cho các bực trí thức thương mến dạy dỗ mau trở nên
lương thiện nhân.
Tai hại của Cứng đầu
1.- Đưa sự tai hại đến cho bản thân
mình. Người mà được tiến hóa về phần tinh thần là nhờ có các bực trí thức chỉ
giáo. Khi tâm chán nản và không ham học lời giảng dạy của các bực trí thức, thì
tâm không được tiến hóa trong sự học vấn về đời cũng như phương diện tinh thần,
đạo đức. Người cứng đầu thường lầm tưởng rằng chính mình họ là người thông hiểu
hơn ai hết. Trái lại các bực trí thức thấy rằng người tỏ ra cứng đầu chính là
người biểu lộ sự ngu dốt của mình ra. Vì vậy nên các bực trí thức thường khiêm
nhượng và chịu khó nghe lời người khác nhắc nhở.
2.- Cái tai hại của cứng đầu là nếu
người cứng đầu không chịu nghe lời chỉ dạy của các bực trí thức mà có quyền
chức chỉ huy một cơ sở nào thì sẽ làm hại đến người trong cơ sở ấy.
Phương pháp trừ Cứng đầu
Muốn trừ cứng đầu phải hành động như
thế nầy:
1.- Đối với người ngoài bản thân
ta:
- Hết lòng dạy bảo bằng lòng từ bi.
- Hành phạt.
- Hành phạt theo thể thức của Phạm
Thiên, ý nói rằng khi không dạy được thì người đồng hội hay cùng một chí hướng
hãy đồng lòng không giao thiệp với người ấy, nhưng không làm hại oán ghét.
Người cứng đầu sẽ bị cô lập rồi sẽ trở nên người dễ dạy.
2.- Đối với bản thân mình:
Phải nhận thấy cái hại của sự cứng đầu và quả của sự biết vâng lời, rồi lo lắng
học hành siêng năng nghe lời giảng dạy của các bực trí thức, cha mẹ, và làm cho
mình trở nên người dễ dạy.
SÀRAMBHA: TRANH ĐUA
Tranh đua là một phiền não làm cho
người bị nhiều sự phiền phức hay nhiều tai hại, như:
1.- Tranh đua thường làm cho các
phiền não khác tuần tự phát sanh theo sau, vì óc tranh đua làm cho tâm vọng
động, khiến con người quyết định phải thắng, và phải tìm đủ thủ đoạn làm cho
không còn thiện tâm nữa. Do đó các phiền não khác thường theo sau phiền não
tranh đua:
MAKKHA: Bội
ơn.
PALÀSA: Đem mình sánh với các bực cao nhân.
ISSÀ: Ganh tỵ
MÀYÀ: Xảo trá.
SÀTHEYYA: Khoe khoang.
ATIMÀNA: Khinh khi các bực trí thức.
Những phiền não này hằng chờ cơ hội
để xâm nhập vào tâm cho mau thỏa óc tranh đấu.
2.- Tranh đua hằng làm cho tâm mờ
tối. Khi người bị phiền não là tranh đua nổi lên, rồi không còn nghĩ phải
trái, tâm thường hay phóng túng, nghĩ sai lầm, chỉ nghĩ những phương thế nào
đánh ngã kẻ mà mình đang tranh đua, mặc dầu người ấy đã đối với ta rất tốt.
Phiền não là nhân tạo ra cảnh vật cho tâm, nên người càng nhiều phiền não chừng
nào thì tâm càng không có an tịnh, mà dầu đã có cũng bị mất dần dần đi. Phàm
tâm con người bị phiền não rồi, không khác nào con tằm bị tơ của mình quấn lấy
không còn xây trở được; tâm bị phiền não bao vây, thì không còn nghĩ phải nữa.
3.- Tranh đua làm cho người mất
quyền thế. Người tranh đua khi đang tranh với người khác, tất nhiên phải có
những hành vi không được tốt đẹp nên người đời trông thấy vậy, đều tránh xa,
như tội lỗi là các bực trí thức, hằng sợ sự tranh đua.
Tóm lại người tranh đua bị thua lỗ
mọi phương diện: mất thanh danh, quyền thế bạn lành. Mặc dầu thắng người mà
mình tranh đua ấy, nhưng bên trong ta lại thua phiền não của ta. Vì vậy nên Đức
Thế Tôn dạy rằng: Tranh đua là một phiền não.
Phương pháp diệt trừ Tranh đua
Phương pháp diệt tranh đua cũng
không có gì khó. Nên có trí nhớ và trí tuệ suy nghĩ thấy cái hại của tranh đua,
cái lợi của không tranh đua. Và hằng thỏa thích với những gì mà mình đã có, gọi
là tri túc.
MÀNA: NGÃ MẠN
Ai cũng biết ngã mạn là một tật xấu
không ai ưa. Phiền não ngã mạn có thể chia ra làm ba bực:
1.- Hạng thô
thiển (biểu lộ ra bên ngoài).
2.- Hạng trung bình (gọi là ANUSÀ: ô nhiễm).
3.- Hạng vị tế (gọi là UPAKILESA:
thụy miên phiền não, phiền não nầy ngủ ngầm trong tâm cho đến khi đắc A-la-hán
quả).
Tai hại của Ngã mạn
Tai hại của ngã mạn nói ra không hết
nhưng có thể tóm lại có ba điều:
1.- Hại cho bản thân mình. Vì
người ngã mạn thường ỷ mình là người cao thượng, quí phái , trí thức v.v…còn
người khác đều ngu dốt, thấp hèn nên làm mất thân thiện với mọi người bên mình.
Người càng ngã mạn, càng thâu hẹp trái đất, ý tôi muốn nói không ai ưa giao
thiệp hay thân cận, nên mặc dầu trái đất to lớn, nhưng người ấy sống lẻ loi,
hình như quả địa cầu nầy rất nhỏ bé. Người ấy, tìm không ra một người bạn lành,
nếu có chăng thì những người lòn ra cúi để nhờ vả thôi, nếu có chuyện quan
trọng những người nầy cũng chạy bỏ.
2.- Ngã mạn làm hại bạn.
Người nào còn giao thiệp với người ngã mạn, thì người ấy cũng bị các bực trí
thức xa lánh và những người bạn lành khác chỉ trích và lánh xa.
3.- Người ngã mạn thường hay
khó chịu trong khi gặp nơi hội họp đông người, vì họ nghĩ rằng ta cao
thượng, ta không muốn giao thiệp với hạng người nầy. Trái lại những người ấy
không muốn gần người ngã mạn. Như vậy người ngã mạn cảm thấy bị cô lập.
Phương pháp trừ Ngã mạn
Người muốn diệt trừ phiền não nầy
nên có trí tuệ nhìn lại sự thật, xem kỹ coi ta là hạng người thế nào, có phải
ta thuộc hàng vua chúa, hạng trí thức, hạng sang giàu và ta có đặc sắc gì hơn
người không. Khi người can đảm nhận thấy mình không có những điều ấy thì nên
mau mau dứt bỏ ngã mạn đừng để căn bệnh ấy nhiễm sâu vào thêm. Nhược bằng ta
thật là thuộc những hạng kể trên, thì ta nên dùng trí tuệ quan sát rằng: ta và
người chỉ khác nhau ở chỗ giàu nghèo, sang hèn, thông minh, dốt nát thôi, nhưng
có chỗ giống nhau là ta vốn là chúng sanh còn đang trong vòng luân hồi khổ não,
và sau khi chết rồi ta sẽ không đem được đặc ân gì theo được, mà chỉ đem tội và
phước thôi. Vậy ta có gì cao thượng. Ta nên dứt bỏ tánh xấu ngã mạn ấy. Hơn nữa
ta hãy suy nghĩ nhận thấy tai hại của ngã mạn, thì dứt bỏ không khó khăn gì.
ATIMÀNA: KHINH NGƯỜI
Theo Phạn ngữ, ATI có nghĩa là quá
hay nhiều. MÀNA là ngã mạn. Ta có thể cắt nghĩa là ngã mạn thái quá. Nhưng
ý nghĩa của ATIMÃNA là khinh người. Ngã mạn chỉ cho rằng mình hơn kẻ khác. Còn
khinh người thì nói ra miệng, chê bai người khác rằng: Người kia không bằng ta.
Trong ấy còn có tánh cách khinh khi bỉ mặt. Thì ra ATIMÀNA từ trong Màna ra.
Khi xét kỹ thì ATIMÀNA là khinh người với hai điều rõ rệt hơn Mãna ngã mạn. Hai
điều ấy là ngã mạn chấp ta và khinh khi người. Vì vậy cái hại của ATIMÀNA
(khinh người) cũng như là Màna (ngã mạn).
Đây tôi xin nhắc lại cái hại về sự
khinh người của dòng Thích ca.
Hai mươi sáu thế kỷ trước đây, dòng
Thích ca là dòng có danh vọng cao quí nhất trong cõi Diêm phù đề, và rất giỏi
về cai trị và chinh chiến. Như vậy có ai dám dè rằng dòng Thích Ca phải bị diệt
tộc một cách chớp nhoáng, chỉ vì khinh người thôi. Nguyên buổi ban mai kia, Đức
vua Ba Tư Nặc, trị vì tại xứ Sãvathĩ, Ngài đứng trên lầu cao trông thấy chư
Tăng đi khất thực, Ngài lấy làm lạ sao chư Tăng vào thành thật sớm, chia ra
từng nhóm nhiều ít khác nhau. Ngài mới nghĩ rằng chư Tăng đi thọ thực nơi nào
có ai thỉnh các Ngài đó, nên Ngài mới hỏi quan hầu rằng:
- Nầy hiền khanh, có ai thỉnh chư
Tăng thọ thực chăng?
- Tâu Đại Vương, có nhiều nhà thỉnh
chư Tăng đến thọ thực.
Đức vua phán hỏi:
- Vậy mỗi gia đình thỉnh mấy vị?
- Tâu Đại Vương, có chỗ thỉnh nhiều,
có nơi thỉnh ít. Tùy theo sức của mỗi gia đình.
- Vậy người mời chư Tăng nhiều hơn
hết là mấy vị?
- Tâu Đại vương, theo thần biết thì
có ông Trưởng giả Cấp Cô Độc thỉnh 2.000 vị, ông Culaanàthapandika thỉnh 500
vị, bà Visàkhà thỉnh 500 vị, bà Supavàsà thỉnh 500 vị.
- Nếu vậy ta thỉnh chư Tăng đến thọ
thực trong cung nội thì hay biết chừng nào!
- Tâu Đại vương, thật là hạnh phúc.
Chiều hôm ấy, Đức vua Ba Tư Nặc đến
chùa Kỳ Viên bạch Đức Thế Tôn rằng:
- Bạch Đức Thế Tôn, đệ tử muốn xin
cúng dường đến chư Tăng hằng ngày.
- Lành thay! Đức Thế Tôn phán.
- Nếu vậy đệ tử xin Đức Thế Tôn cho
đệ tử thỉnh trai tăng mỗi ngày một ngàn vị.
- Lành thay!
- Riêng về phần Đức Thế Tôn, đệ tử
xin thỉnh Ngài thọ thực hằng ngày trong hoàng cung, còn chư Đại đức khác tuỳ
theo sở định của tăng chúng.
Đức Thế Tôn phán: "Tâu Đại
vương, lẽ cố nhiên, một vị Chánh đẳng Chánh giác không bao giờ thọ thực một nhà
mãi mãi, vì tất cả nhân loại đều mong muốn được cúng dường cho Đức Phật, cho
nên Như Lai phải vì nhân loại."
Đức vua bạch: "Bạch Đức Thế
Tôn, nếu chư Tăng hằng đổi phiên nhau đi thọ thực trong hoàng cung, thì khó cho
quí Ngài không quen, vậy xin Đức Thế Tôn cho một vị đến thường trực, vì như vậy
thì vị ấy thông thạo sự đi lại và nơi thọ thực."
Đức Thế Tôn đáp: "Như thế ấy là
Như Lai nhậm lời!"
Sáng ngày, có một ngàn đệ tử Phật
đến thọ thực. Đây là lần đầu tiên đức vua trai tăng, nên ngài chưa thông đạo và
sự bố thí có tánh cách là quảng cáo cho dân chúng biết. Vì vậy chính Đức vua
ngự ra dâng cúng đến chư Tăng. Ngài làm như thế được 7 ngày, Ngài lại giao phận
sự ấy cho các quan lo, còn Ngài thì lo việc khác, vì vậy nên sự cúng dường càng
ngày càng giảm sự cung kính và vật thực cũng không đủ và các quan làm phận sự
không tròn. Khi ấy chư Tăng càng ngày càng giảm, không đến thọ thực trong hoàng
cung nữa, chỉ còn có một mình Đức Ananđa ráng trì chí nhẫn nhịn đến thôi.
Đức vua Ba Tư Nặc thấy chư Tăng vào
thọ thực trong hoàng cung càng ngày càng ít như thế, Ngài ngờ rằng vì các quan
phụ trách việc ấy không làm tròn phận sự hay là vì Ngài không phải là quyến
thuộc của Phật, nên chư Tăng không thích đến. Rồi Ngài thầm nghĩ rằng:
"Vậy ta phải làm sao cho trở nên quyến thuộc của Phật. Ta phải cưới cho
được người dòng Thích Ca về làm hoàng hậu, chừng đó thì chư Tăng và Đức Phật sẽ
ngự đến thọ thực."
Đoạn Ngài mới cho sứ thần đến thành
CA BÌ LA VỆ xin làm lễ cưới con gái dòng Thích Ca.
Khi dòng Thích Ca tiếp được lời yêu
cầu của Đức vua Ba Tư Nặc, liền hội nhau lại bàn việc gả cho con vua Ba Tư Nặc.
Sự thật thì dòng Thích Ca không bao giờ muốn gả con cho dòng khác, nhưng nếu
không gả thì sợ Đức vua Ba Tư Bặc cử binh đến vấn nạn. Vì vậy họ mới gả con của
người thị nữ tên Vàsabhakhattiyà. Sứ thần và đức vua Ba Tư Nặc đều không biết
chuyện ấy.
Mười sáu năm sau, thái-tử Vidùdabha
tưởng rằng mẹ mình là dòng Thích Ca cao quí, nên xin mẹ cho phép về thăm quê
ngoại. Hoàng hậu thấy con quyết về thăm quê ngoại như vậy không biết phải nói
sao, nên cho người về báo dòng Thích Ca hay trước và yêu cầu tiếp đón nồng hậu.
Khi hoàng tử Vidùdabha ngự về thành
Ca Bì La Vệ với quan hầu thật trang nghiêm, thì dòng Thích ca đã cho các công
nữ, và hoàng tử đi chơi xa, vì dòng Thích ca không bao giờ chịu làm lễ ai mặc
dầu bằng một cái chấp tay xá.
Khi đến sân chầu thái tử Vidùdabha
được một vị đại thần đưa đi giới thiệu cho từ vị trưởng thượng dòng thích Ca.
Thái tử Vidùdabha làm lễ các vị xong, mới hỏi vậy các hoàng huynh đệ đi đâu
hết, không thấy có mặt vị nào. Vị đại thần đáp rằng:
Những vị ấy mắc đi học xa, có vị đi
săn bắn chưa về. Thái tử Vidùdabha tin bằng lời.
Đến ngày thứ tư thái tử Vidùdabha
cáo từ ra về. Những thị nữ trong hoàng cung rất bực mình, vốn muốn cho thái tử
về mau, nên khi thái tử vừa ra đi, thì bọn thị nữ lấy sữa tươi rửa chỗ ngồi của
thái tử và nói rằng: "Thứ đồ con của đầy tớ mà cũng làm cho chúng mình
nhọc công!"
Ngay khi ấy, có một vị quan hầu của
thái tử trở lại lấy cây gươm của thái tử bỏ quên nghe được lời ấy, bèn tâu lại
cho thái tử nghe. Thái tử Vidùdabha lấy làm căm tức nói rằng: "Ngày nào
đây ta sẽ lấy máu cổ của dòng Thích ca để rửa mặt đất!"
Thời gian qua, đến khi thái tử
Vidùdabha được trị vì xứ Sàvatthì là xứ hùng cường nhất trong thời kỳ ấy, điều
mà Ngài nhớ trước hết là lời khinh khi của những người tỳ nữ của dòng Thích Ca
nên Ngài truyền ra quân và chính Ngài thân chinh.
Đức Thế Tôn biết trước rằng dòng
Thích Ca sẽ bị tiêu diệt do tay của vua Vidùdabha. Ngài nghĩ thương hại cho cả
hai bên thắng cũng như bại đều bị tiêu diệt nên Ngài mới ngự đến nơi biên giới
của hai nước Sàvatthì và Ca Bì La Vệ.
Khi trông thấy Đức Thế Tôn, đức vua
Vidùdabha mới đến gần lễ bái xong rồi hỏi rằng: "Bạch Đức Thế Tôn, tại sao
Ngài ngự dưới cột cây nhành lá thưa thớt trong buổi trưa nóng nực như thế này?
Xin thỉnh Ngài đến ngự dưới cột cây kia mát hơn".
Trong thâm tâm, vua Vidùdabha muốn
thỉnh Đức Thế Tôn ngự qua cây khác là muốn cho trống đường đặng quân Ngài đi
qua. Ngài sợ khi quan quân trông thấy Đức Thế Tôn sẽ ngã lòng, vì tất cả quan
quân ai ai cũng kính trọng và rất trong sạch với Đức Thế Tôn, thì sẽ không chịu
đi giết hại dòng Thích Ca.
Đức Thế Tôn đáp lời rằng: "Tâu
đại vương, bóng cây kia thật là mát, nhưng bóng mát của quyến thuộc còn mát hơn
bóng cây ấy".
Đức vua nghe qua liền hiểu rằng Đức
Thế Tôn ngự đến nơi đây là để ngăn Ngài không cho giết hại dòng Thích Ca. Vì
lòng kính nể và thương mến Đức Thế Tôn, và nghĩ rằng Ngài là cậu mình, nên đức
vua lễ bái xong lui ra và truyền rút quân về thành.
Nhưng đức vua Vidùdabha chỉ dằn lòng
được ngay lúc đó thôi; lúc sau Ngài lại cử binh đi nữa. Như thế đến ba lần mà
lần nào cũng gặp Đức Thế Tôn, đức vua đều trở về đủ ba lần.
Đức Thế Tôn đón đức vua Vidùdabha cả
ba lần nhưng biết không thể cản được, nên Ngài không đến cản lần thứ tư. Ngài
biết rằng nếu là nghiệp và oan trái thì không thể nào giải được, mặc dầu Ngài
là Phật.
Vì vậy đến lần thứ tư, Đức vua
Vidùdabha xua quân vào tận diệt dòng Thích Ca. Vì dòng Thích Ca là dòng tu hành
thọ ngũ giới rất trong sạch nên không kháng chiến, để quân Đức vua Vidùdabha
vào thành tàn sát dễ dàng.
Tai hại của dòng Thích Ca phải gánh
chịu đó là do nơi sự khinh khi kẻ khác mà ra.
Người khinh khi kẻ khác có thể chia
ra làm hai hạng, một hạng khinh khi kẻ khác bằng lời nói và hạnh thứ nhì thì
khinh khi người ngầm trong tâm mình. Hạng người thứ nhì không khinh khi người
vì nghèo hay ít học hoặc dốt nát hay gia đình hạ lưu mà khinh khi vì đủ mọi
việc mà không phô bày ra bên ngoài cho người ta biết. Bệnh này thật là khó chữa
không khác nào ung thư bên trong. Phiền não nầy thật là tai hại cho tâm.
Muốn trừ phiền não ấy, ta nên nhận
thấy quả của khinh người như dòng Thích Ca, ta phải làm cho tâm biết kính trọng
người trưởng thượng mặc dầu hạng người ấy thuộc giai cấp nào, đừng quên rằng
dầu sao họ cũng là người như ta, khi chết cũng thúi như nhau. Chúng ta hãy xem
coi chúng ta có gì quý hơn người, khi chúng ta nhổ nước miếng vào một cái ly
hỏi chúng ta có thể liếm nước miếng ấy lại được không? Tất nhiên là không. Ta
cao quý và trong sạch ơn người khác ở chỗ nào, chính bản thân và đồ vật trong
người của ta ra mà ta cũng vẫn gớm như thường. Tóm lại muốn diệt sự khinh khi
người ta, phải có pháp ATTANNÙTÀ nghĩa là luôn luôn có sự nhận thức biết ta là
hạng nào.
MADA: SAY
Phiền não nầy có nghĩa là say, nhưng
say của tâm chớ không phải say của thân. Cái say của thân là say rượu, say
trầu, say thuốc, say nắng v.v… Những cái say nầy có thể hết được không cần
chữa. Nhưng cái say của tâm thì thuốc chữa cũng chẳng lành mà nằm nghỉ củng
chẳng hết.
Người đời khi có tiệc hay bạn bè rủ
uống rượu chơi, lỡ say, đây thuộc về thân say. Còn người nào không có rượu là
chịu không được, phải có rượu uống mới được, không vậy thì buồn bực quạo v.v…
Đây thuộc về tâm say. Tóm lại khi ta thấy người say ngã tới ngã lui, ấy ta chưa
chắc người ấy say thân hay say tâm. Phải đợi coi hành vi của họ, vì cái say có
rất nhiều hình thức, phải xem kỹ sự hành động mới có thể định được.
Tai hại của sự Say
Phàm người đã say, dầu say một vật
nào, vật ấy cũng là nguyên nhân đem tai hại đến cho ta ít hay nhiều tùy trường
hợp. Vật nào làm say người cũng thường làm cho mất thanh danh, mất tín nhiệm,
các bực trí thức chỉ trích, bạn bè lánh xa; công việc làm ăn bị đình trệ; cái
hại nhỏ nhất là trong gia đình bị xáo trộn, như vợ không kính nể, con không
vâng lời, kẻ giúp việc trong nhà cũng chẳng kiêng nể.
Phương pháp trừ Say
Phàm người có trí nên nhìn thấy cái
hại của mình, gia đình mình và con mình, nên lánh xa những gì làm cho ta say
như rượu, á phiện, cờ bạc, đàng điếm. Theo lời Phật dạy, các đệ tử không nên mê
theo ngũ trần dục lạc, vì đó là nguyên nhân luân hồi. Đức Thế Tôn thường dạy
nên suy tưởng đến cái hại của ngũ trần để mà xa lánh. Ngài ví ngũ trần như ngọn
đuốc cháy mạnh, người mê theo ngũ trần không khác nào là người cầm ngọn đuốc ấy
chạy ngược gió, hoặc ngũ trần không khác nào con dao bén có thoa mật, còn chúng
ta như những trẻ con không biết đó là con dao bén, mà đưa lên liếm. Ngũ trần ví
như mật có chất độc, chúng ta là người ít trí tuệ ham uống chất ngọt, nên nhiễm
độc. Đức Phật thường dạy ngũ trần là sắc đẹp, tiếng hay, mùi ngon, vị thơm, sự
cảm xúc mềm mại mà chúng sanh thường ưa thích, là nhân đem lại cho chúng sanh
khổ nhiều vui ít. Nếu có vui chăng thì chỉ vui chốc lát mà khổ nhiều năm. Chúng
ta ví như người ngồi giữa đống lửa đốt chung quanh nóng nảy khó chịu không sao
kể xiết được, nhưng khi có trận gió thổi qua ta cảm thấy mát, nên quên cả sự
nóng bao nhiêu lâu. Lửa ấy là cái hại của ngũ trần, còn ngọn gió thoảng qua là
sự vui của ngũ trần.
Người mà muốn trừ được sự say mê nên
có trí nhớ và trí tuệ để nhận thấy cái khổ của ta vì say mê tài, sắc, danh,
lợi, mà khổ không ngày giải thoát được .
PAMÀDA: DỄ DUÔI
Dễ duôi có nghĩa là làm việc không
có trí nhớ, hay có thể nói làm việc không cẩn thận. Khi người làm việc thiếu
trí nhớ và không cẩn thận thì việc làm thường hay hư hỏng nhưng đó chỉ là tiểu
tiết, có thể trông thấy trong hành động của người dễ duôi. Còn những chi tiết
quan trọng hơn mà ta không nhìn thấy được, vì không biểu lộ ra bên ngoài mới
thật là chân tướng của dễ duôi. Nói đến sự dễ duôi nầy, Đức Thế Tôn ám chỉ
người thiếu trí nhớ và trí tuệ, không bao giờ nghĩ đến rằng mình đã già, mình
đang đi đến nơi tiêu diệt, tức là đến chỗ chết nó chờ mình. Người đời không bao
giờ thấy cái chết thật gần bên ta, ta có thể chết vì đủ mọi phương diện hoặc vì
xe đụng hay vì những tai nạn nào khác không kể xiết được. Nhưng người đời vì dễ
duôi, nên nghĩ không bao giờ mình bị những chuyện ấy. Đức Phật dạy: Mỗi phút
qua, chính là chúng ta đi đến gần cái chết. Những người chết rồi không đem gì
theo được, mặc dầu giàu có sang trọng, tiền nhiều của dư. Người chỉ miệt mài
theo tài, sắc, lợi, danh quên mình như thế, gọi là người thiếu trí nhớ, thiếu
trí tuệ, là người dễ duôi.
Đức Phật có dạy rằng:
PAMÀDOMACCUNOPADAM nghĩa là sự dễ duôi là con đường đi đến chỗ chết.
YE PAMADA YATHÀMATA: Người dễ duôi
ví như người đã chết. Câu này có ý nói là người mặc dầu còn sống nhưng không
làm gì lợi ích cho mình kiếp này và đời vị lai thì không khác nào người đã
chết.
Phương pháp diệt trừ Dễ duôi
Phương pháp diệt trừ dễ duôi bên
ngoài là cố tập cho có trí nhớ. Trí nhớ là pháp quan trọng nhất nên đức Phật
dạy pháp tứ niệm xứ là: niệm thân, niệm thọ, niệm tâm và niệm pháp.
Niệm thân có hai phương diện khác
nhau: a) bên ngoài, và b) bên trong.
a.- Người niệm thân là người hằng
nhớ đến thân mình, biết rằng ta đang đi, đứng, hay nằm ngồi, hoặc làm gì, luôn
vẫn có trí nhớ quan sát, vì ta không có trí nhớ quan sát, nên khi làm gì xong
rồi ta lại quên đi, hay khi ta đang làm, nhưng ta thiếu trí nhớ làm cho chuyện
ấy không được hoàn toàn chu đáo. Trong tứ niệm xứ, nói niệm thân là nói khi đi
ta giở chân lên cũng biết ta đang giở chân lên, khi để xuống biết ta để xuống,
mà để gót xuống trước hay bàn xuống trước. Trí nhớ kỹ càng như vậy trong mọi
công chuyện thì không khi nào ta bị thất bại. Quí vị cố tập theo lời này, chắc
chắn sẽ thấy trí nhớ tăng trưởng; người không tập thì trí càng ngày càng xa
mình dần, thành ra ta nói ta hay quên là vì vậy. Đó là đức Phật dạy sơ cho ta
tập trí nhớ bên ngoài.
b.- Phạn ngữ KÀYA nghĩa là (thân)
hội họp. Hội họp những gì? Hội họp 32 thể trược như tóc, lông, móng, răng, da
v.v…và 32 thể ấy do nơi tứ đại là đất, nước, gió, lửa tạo thành.
KÀYA cũng có nghĩa là chỗ sanh ra
những vật bẩn thỉu, đây có ý nói thân nầy là vật cấu tạo do nơi những vật không
sạch của mẹ cha, và chính nó hằng tiết ra những mùi hôi thúi. Hơn ấy nữa, thân
nầy lại sanh ra những vật nhơ nhớp hơn tất cả các vật nhơ nhớp, là sự HUNG ÁC
của con người.
Chữ KÀYA do chữ KU và ÀYA, KU có
nghĩa là bẩn thỉu; ÀYA có nghĩa là hội họp.
Khi đức Phật dạy niệm thân bên trong
thân, Ngài cố ý dạy hãy suy nghĩ thấy mỗi phần nhỏ riêng biệt nhau ở trong một
khối lớn, chia thân nầy ra từng phần như tóc, lông, móng, răng, da, thịt v.v…
chúng ta nhận thấy mỗi phần có tên riêng của nó thì cái gì là của ta, là ta, là
người; vật mà ta vẫn chấp thân nầy là của ta.
Khi chúng ta chia ra từng phần khác
nhau như vậy, chúng ta lại thấy rằng các thành phần ấy đều dưới quyền sở hữu
của 4 pháp:
1.- ANICCATO:
Thân nầy là vô thường (không bền vững).
2.- DUKKHATO: Thân nầy khổ não.
3.- ANTTATO: Thân nầy vô ngã ( không phải ta, không phải của ta).
4.- ASUBHATO: Thân nầy rất là nhơ bẩn.
Đức Thế Tôn có dạy: Hành giả nên
quan sát thân nầy như vầy: "Về phần trên từ tóc xuống đến da bàn chân, về
phần dưới lên từ da bàn chân đến tóc, thân ta bao bọc bằng một lớp da và thân
nầy có 32 thể tạo thành. Nầy các thầy Tỳ khưu nên quán tưởng thấy thân ta như
thế".
Khi người thấy trí nhớ thô siểng là
nhớ đến mọi sự hành động của mình bên ngoài để diệt trừ sự dễ duôi, không làm
sai lầm trong công việc. Đó là niệm bên ngoài. Còn suy nghĩ thấy thân như niệm
bên trong đã dạy trên kia để làm cho người không dễ duôi ham mê theo tài, sắc,
lợi, danh, thì mới là phần quan trọng, là con đường đi ra ngoài biển Luân hồi.
Khi tâm người không dễ duôi, thì không chạy theo trần dục, tâm ấy sẽ được thảnh
thơi, không nóng nảy vì lòng tham ái, sân hận và si mê. Đây là pháp không dễ
duôi và diệt trừ sự dễ duôi.
*
* *
Như
trên đây quí vị đã thấy Si mê là nguồn gốc của mọi phiền não khác. Tham lam hay
sân hận chỉ có đôi ba chi liên hệ với phiền não chánh thôi, riêng si mê có cả
12 chi mà mỗi chi đều rất quan trọng. Nếu quí vị thấu hiểu những phiền não đã
kể trên và cố tâm quan sát coi nó phát sanh lên do nơi đâu, trong trường hợp
nào, xong quí vị lại diệt trừ nó theo pháp đối trị thích ứng thì chắc chắn quí
vị sẽ đặng an vui trong kiếp này và đời vị lai.
Rất mong rằng đem đến cho quí vị
nhiều lợi ích. Cầu xin phước báo tôi cố viết này hộ trì vị nào đã xem qua, được
mau giải thoát khỏi Tam độc.
Maha
Thongkham Medhivongs