Wednesday, November 12, 2014

Yêu là khổ




Ngoài bản chất từ bi hay thương người và sẵn sàng cảm thông giúp đỡ, Ðại đức Ananđa rất khiêm nhã, phong cách uy nghi, lại thêm sắc diện sáng tươi khả ái đã vô tình khiến cho một thiếu nữ say mê cuồng nhiệt. Câu chuyện như vầy:
Có một hôm mùa hè nóng bức, Ðại đức hữu sự đi đường xa, lúc trở về Kỳ viên tịnh xá ánh nắng gay gắt như đốt cháy thịt da, khiến Ðại đức khát nước khô cổ, mồ hôi nhễ nhại. Vừa lúc ấy, một thiếu nữ đang xách nước xuất hiện như một cứu tinh. Quá vui mừng, Ðại đức đến gần và lên tiếng:
- Này tín nữ, bần đạo đi đường xa nên khát nước, nếu không thấy phiền xin tín nữ vui lòng cho bần đạo ít nước giải khát.
Nghe lời nói vô cùng lịch sự tao nhã, thiếu nữ ngước lên nhìn, nàng giựt mình mất bình tĩnh, vừa bước lui vừa nói:
- Thưa Ðại đức, tôi không dám dâng nước cho Ðại đức đâu. Ðại đức cũng không nên uống nước này vì Ðại đức là dòng dõi quí tộc, còn tôi là dòng nô lệ thấp hèn.
- Tín nữ không nên nghĩ như vậy. Bần đạo là người vô giai cấp. Bần đạo là Thích tử Sa môn chứ không phải vua chúa, bà la môn, thương gia hay lao động, mà chỉ là một con người như tín nữ vậy.


- Tôi chỉ sợ làm hoen ố đến Ðại đức vì Ðại đức nhận nước từ tay người khác giai cấp, mà kẻ ấy lại là tôi, một giai cấp hèn hạ, nô tỳ và chính cá nhân tôi cũng bị đắc tội. Chớ thực ra tôi đâu tiếc rẻ gì với Ðại đức - Nàng trả lời với giọng nhẹ nhàng và xúc động.


- Tín nữ này, sự hoen ố và tội lỗi không bao giờ có nơi người nặng lòng từ bi và nhiều nhân ái. Sự hoen ố và tội lỗi chỉ có trong hành vi bất thiện. Như vấn đề này, bần đạo là người xin nước, tín nữ là người thí nước, tất cả đều là hành động đạo lý, mà hành động đạo lý thì không thể bị hoen ố và có tội, trái lại nó là chất nước trong sạch để tẩy rửa những vật dơ bẩn. Truyền thống giai cấp mà Bà la môn giáo chủ xướng không tạo được sự bình đẳng mà chỉ tạo thêm sự ngăn cách, làm tổn thương nhân phẩm. Ðức Tôn Sư của bần đạo có dạy rằng: không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ, không có sự bất bình đẳng trong giọt nước mắt cùng mặn. Tất cả sự thật, bần đạo đã giải bày, nếu tín nữ có thể cho được thì xin đổ nước vào cái bát này.


Nàng cảm thấy thấm thía, ngọt ngào qua lời nói vừa thành thật vừa hữu lý của Ðại đức. Ðấy là lần đầu tiên trong đời bất hạnh của nàng mới được nghe, nhất là lời nói đó phát xuất từ con người, mà đời cho là thượng lưu quí tộc. Dư âm lời nói dường như cứ ngân nhẹ trong tai nàng. Bàn tay dịu dàng, trịnh trọng đổ nước vào bát Ðại đức trong tư thế quì một chân, còn Ðại đức Ananđa thì đứng cúi xuống nhận nước và uống một cách ngon lành. Nàng ngước nhìn Ðại đức uống nước mà niềm vui tràn ngập cả tâm hồn.

Uống xong Ðại đức phúc chúc:
- Cầu cho tín nữ được nhiều hạnh phúc.

Nàng nghiêng thùng nước và mời:
- Bạch Ðại đức, xin Ðại đức uống thêm cho thật hết khát.
- Vừa đủ rồi tín nữ ạ!
- Bạch Ðại đức, làm sao tôi có hân hạnh được biết quí danh Ðại đức?
- Tín nữ có từng nghe Ananđa, thị giả của Ðức Phật bao giờ chưa?
- Dạ có.
- Có từng thấy mặt không?
- Dạ không.
- Chính tín nữ đang tiếp chuyện với Ananđa đó.


Nàng bàng hoàng vì sung sướng ngập lòng. Quả thật, nàng chưa bao giờ dám mơ ước được thấy mặt con người bằng xương bằng thịt huống chi được hầu chuyện cùng Ðại đức Thị giả của Ðức Thế Tôn. Hào quang của sự sung sướng tỏa chiếu ra ngoài sắc mặt và ánh mắt. Nàng nói thật nhẹ, giọng nói hơi run:
- Bạch Ðại đức, thật là một diễm phúc lớn cho tôi được gặp Ðại đức, người có giới hạnh, có danh vị mà tôi cứ tưởng là mình nằm mộng.

Ðại đức Ananđa từ giã nàng và về Kỳ Viên tịnh xá. Ðược một đổi đường, Ðại đức nghe tiếng chân người phía sau, bèn quay lại nhìn thì thấy thiếu nữ ban nãy. Ðinh ninh nhà cô ta ở cùng đường, nên Ðại đức cứ tiếp tục đi, không nghi ngờ chi cả. Nhưng khi đến gần cổng chùa không còn ngã rẻ, Ðại đức quay nhìn lại, vẫn thấy nàng lẽo đẽo theo sau, cặp mắt đắm đuối nhìn mình, bèn dừng bước, chờ nàng đến gần, và hỏi:
- Tín nữ đi về đâu?
- Dạ, tôi đi về chùa Kỳ viên.
- Tín nữ vào đó để làm gì?
- Ðể được gặp Ðại đức và trò chuyện với Ðại đức.
- Tín nữ không nên vào đây nếu không có lý do chính đáng, vì đây là chỗ ở của chư tăng. Tốt hơn, tín nữ nên về nhà.
- Tôi không về nhà nữa. Tôi thương Ðại đức. Ðời tôi chưa bao giờ gặp ai khả kính, khả ái như Ðại đức.


- Này tín nữ, Ðức Tôn Sư dạy rằng: muốn biết người tốt xấu phải ở chung lâu ngày, nhận xét vô tư và phải phán quyết sáng suốt. Ở đây, tín nữ mới gặp bần đạo một lần thì làm sao dám quả quyết là bần đạo khả kính, khả ái. Nếu bần đạo đã mượn danh Ðại đức Ananđa, thì tín nữ nghĩ sao? Thôi tín nữ hãy về nhà, đừng vào chùa bất tiện lắm.


- Dù Ðại đức là ai, tôi vẫn thương Ðại đức.
- Tín nữ, Ðức Tôn Sư dạy rằng: yêu là khổ. Yêu sanh ra lo sợ. Yêu là nguồn gốc của mọi tội lỗi. Tín nữ không sợ khổ sao?


- Thưa Ðại đức, tôi sợ khổ và không muốn bị khổ. Mọi người trên thế gian cũng như tôi. Tuy nhiên, tôi muốn được thương yêu đặc biệt là yêu thương Ðại đức.


- Làm sao được hở tín nữ? Vì nhân quả lúc nào cũng liên quan mật thiết. Cái nhân thương đã gieo, thì cái quả khổ phải gặt.


- Ðại đức nói vậy, chớ tôi nào thấy khổ. Tôi chỉ thấy vui sướng và hạnh phúc khi được gặp gỡ, chuyện trò với Ðại đức, người mà tôi yêu thương, quí kính nhất đời.


- Nếu sau này không gặp bần đạo nữa thì tín nữ có khổ không?
- Chắc chắn là phải khổ nhiều lắm.
- Như vậy chứng tỏ yêu là khổ.


- Không phải vậy. Ðó là do sự xa cách người thương, chớ không phải do bản chất sự thương yêu.
- Nếu xa cách người không thương thì có khổ không ?
- Dạ không.
- Này tín nữ, như vậy tín nữ đã tự thú nhận rằng chính sự thương yêu là nguyên nhân của đau khổ.


- Bạch Ðại đức, sự đau khổ mà Ðại đức vừa nói đó là sự đau khổ của người không được thương yêu, nếu được thương yêu thì đâu có khổ.
- Tín nữ đã từng được yêu thương lần nào chưa?
- Từ trước thì chưa.
- Nếu chưa từng được yêu thương thì tín nữ làm sao biết chắc là không đau khổ. Người bốc lửa dù cố ý hay vô tình cùng bị nóng phải không tín nữ?
- Dạ phải.


- Vậy thì cái khôn ngoan nhất là đừng bốc lửa thì không nóng, cũng như không yêu là không khổ.


- Bạch Ðại đức, dù Ðại đức có giải thích cách nào tôi cũng yêu Ðại đức. Nếu Ðại đức không chấp nhận tình yêu đơn phương của tôi, thì Ðại đức cứ nhận tôi như một người giúp việc trung thành để tôi được phục dịch Ðại đức và riêng tôi cũng cảm thấy hạnh phúc và mãn nguyện.


- Thật tội cho tín nữ quá! Tại sao tín nữ lại thương một người như bần đạo, trong khi tình thương yêu của bần đạo đã hiến dâng trọn vẹn cho Ðức Tôn Sư rồi. Thú thật với tín nữ, trái tim bần đạo không còn khoảng trống. Bần đạo cũng không thể chấp nhận tín nữ như người giúp việc, vì điều này Ðức Tôn Sư đã cấm chỉ. Bần đạo thông cảm nỗi lòng tín nữ, song bần đạo không thể vượt ra ngoài khuôn khổ luật định. Tín nữ hãy về đi. Không khéo chư vị tỳ kheo, sa-di thấy được thì họ sẽ chê trách bần đạo. Vả lại, nơi đây rất gần hương thất Ðức Bổn Sư. Tín nữ hãy nên tự trọng.


Ðức Bổn Sư nghe rõ câu chuyện đối đáp giữa hai người, bèn lên tiếng hỏi:
- Chuyện gì đó Anan?
- Bạch Thế Tôn, một thiếu nữ đòi theo đệ tử vào chùa.
- Hãy cho cô ta vào, và dẫn đến đây gặp Như Lai.


Ðại đức Ananđa hướng dẫn thiếu nữ vào bái kiến Ðức Phật. Ðức Tôn sư hỏi:
- Ananđa, câu chuyện xảy ra thế nào mà cô đây đòi theo ngươi vào chùa?
Sau khi nghe Ðại đức Ananđa tường thuật, Ðức Tôn Sư hỏi thiếu nữ:
- Này tín nữ, tín nữ thương Ananđa phải không?
- Bạch Ðức Thế Tôn phải.
- Tín nữ thương chổ nào?
- Ðệ tử thương cặp mắt.
- Tín nữ này, mắt là nơi qui tụ một số thần kinh hệ và hai cục thịt mềm, chứa đựng nhiều trược chất: nước mắt, cứt ghèn, nước nhờn và mủ máu. Vậy tín nữ còn thương cặp mắt của Ananđa nữa không?
- Bạch Ðức Thế Tôn, nếu vậy thì đệ tử thương cái mũi của Ananđa.
- Này tín nữ, cái mũi cũng là nơi liên kết một số thần kinh hệ, bên trong chứa nhiều trược chất: nước mũi, cứt mũi, nước nhờn... và rất hôi hám. Vậy tín nữ còn thương cái mũi của Ananđa nữa không?


Nàng mắc cở, đâm liều, cứ nói thương cái này đến thương cái khác. Nàng nói thương bộ phận nào thì Ðức Tôn Sư đều giải thích cái uế trược của nó. Cuối cùng nàng cúi đầu yên lặng. Ðức Phật dạy:
- Tín nữ ơi, xác thân này chỉ là cái bị da, được tạo dựng lên bằng xương thịt và máu mủ, các vật uế trược thường trực chảy theo cửu khiếu, là nhà trọ, là nghĩa trang của các loại sinh trùng, là ổ bịnh tật, là nhà vệ sinh cố định, nếu không chịu khó rửa ráy thường xuyên thì mùi hôi thúi sẽ xông ra tức khắc. Tín nữ ơi, xác thân này sở dĩ đẹp đẽ là nhờ da thịt bên ngoài che đậy các vật uế trược bên trong, cũng như quan tài được sơn phết màu mè, được trau chuốt trơn láng mà bên trong là tử thi hôi thúi. Không ai ưa thích quan tài có tử thi sình thúi. Vậy tại sao tín nữ lại ưa thích xác thân có nhiều trược chất và sinh trùng?

Lẽ ra, giọt nước cành dương đã rủ sạch lòng trần. Nhưng tội nghiệp nàng, vì nàng quá thương yêu Ðại đức Ananđa, thương đắm đuối, cuồng nhiệt, quên thân phận hiện tại, quên cuộc sống cách ngăn, quên cả sự hiện diện tôn quí và pháp âm mầu nhiệm của Ðức Bổn Sư. Tâm trạng nàng chỉ nghĩ đến Ðại đức Ananđa. Trái tim nàng chỉ có hình ảnh độc nhất của người nàng yêu. Quả thật tình yêu của nàng là tình yêu đơn phương, song nàng bất chấp, vì trong cái cay đắng ấy nàng vẫn cảm thấy thú vị ngọt ngào.

Thỉnh thoảng, ánh sáng chánh pháp lóe lên trong tâm hồn nàng, rồi vụt tắt thật nhanh như điện trời. Nàng như chiếc xe tuột dốc mà bộ phận thắng đã hư. Lửa ái dục đang bốc cháy rực trời mà nước cam lồ chưa dập tắt được. Nàng suy nghĩ lung lắm, tìm phương cách nào để được gần gủi Ðại đức Ananđa nhưng vấn đề hoàn toàn bế tắt. Thất vọng nàng bái biệt Ðức Phật ra về. Nàng cũng không quên liếc nhìn Ðại đức Ananđa như trao gởi hẹn hò.

Thời gian nàng gặp gỡ Ðại đức Ananđa rồi theo Ðại đức về chùa bái kiến Ðức Phật đã hết nửa ngày. Trời chiều bãng lãng. Nàng phập phồng lo sợ sự vắng mặt quá lâu của mình sẽ trở nên đại tội nếu chủ nhà cần gọi. Vì đã có lần nàng bị hành hạ tàn nhẫn chỉ vì cái lỗi này. Thật tội nghiệp cho thân phận và kiếp sống tôi đòi.
Nhưng may mắn làm sao! Suốt thời gian ấy chủ nhà tuyệt nhiên không gọi đến nàng. Một sự kiện ngoại lệ. Có lẽ đây là Phật lực.

Ðêm ấy nàng Cô-ki-la trằn trọc, thao thức suốt canh trường. Mở mắt thì nóng rát, mệt mỏi; nhắm mắt thì hình ảnh Ðại đức Ananđa hiện lên như thiên thần bất tử. Giác quan thứ sáu của nàng gần như không còn đối tượng, ngoại trừ hình ảnh của Ðại đức Ananđa. Nàng tâm niệm tên Ðại đức liên tục không gián đoạn, như tín đồ ngoan đạo niệm hồng danh Ðức Bổn Sư. Thỉnh thoảng hình ảnh từ bi thanh tịnh của Ðức Bổn Sư hiện lên trong tiềm thức và nàng cũng cảm thấy yên tịnh đôi phần. Nàng cũng có cảm giác của khách lữ hành giữa trưa hè nắng gắt được núp bóng tàn cây. Nhưng cuối cùng hình ảnh từ bi, thanh tịnh của Ðức Phật mờ dần, nhường cho hình ảnh khả ái của Ðại đức Ananđa ngự trị. Tội nghiệp, nàng hoàn toàn bất lực trước trận giặc tình, nên đã tự mâu thuẩn với nổi niềm riêng.

Tiếng gà đã gáy sang canh. Tiếng gáy thúc dục, liên hồi báo hiệu bình minh mới. Gió mai thổi hơi sương luồn qua cửa sổ khiến nàng cảm thấy phấn khởi và tỉnh táo. Nàng đứng lên cởi bỏ áo choàng, chuẩn bị thức ăn sáng cho chủ. Mặc dù bận rộn, nàng vẫn không quên được hình bóng của Ðại đức Ananđa. Nàng thầm van vái thần linh xui khiến cho Ðại đức sáng nay đi khất thực ngang qua nhà nàng đang ở.

Nắng mai khiến nàng dễ chịu. Làm xong bổn phận, nàng ra đứng trước cửa, cặp mắt mơ màng, nhìn xa xăm. Bỗng nàng trông thấy một vị tỳ kheo ni, tay ôm bình bát, mình mặc áo cà-sa đang đi khất thực và tiến tới nhà nàng. Một ý nghĩ khác thường thoáng hiện qua tâm thức, khiến nàng sung sướng như bắt được vàng.

- Tỳ kheo ni! Ta sẽ xuất gia làm tỳ kheo ni, sẽ được ở gần Kỳ viên tịnh xá, sẽ có cơ hội gặp gỡ chuyện trò với người thương.

Quyết định xong, nàng xin nghỉ việc, đến chùa bái kiến Ðức Thế Tôn và xin xuất gia. Ðức Thế Tôn thấy rõ thiện duyên thánh quả của nàng nên Ngài hoan hỉ chấp thuận và cho ở chung với ni chúng gần Kỳ viên tịnh xá. Sau khi xuất gia, tân ni cô tích cực học tập, làu thông kinh luật, hạnh kiểm trang nghiêm, thu thúc lục căn, sống hòa mình, có kỷ cương và rất đẹp lòng ni chúng. Yếu tố giúp nàng thành công trong nếp sống phạm hạnh là đức tính trầm lặng.

Mặc dù tinh tiến vượt bực nhưng nàng cũng không tránh khỏi xao xuyến khi Ðại đức Ananđa đến dạy đạo tại ni viện mỗi buổi chiều. Có một lần, nàng được nghe Ðức Bổn Sư thuyết pháp về phiền não là tham ái, sân hận và si mê. Ngài dạy:
- Cả ba thứ phiền não đều thiêu đốt chúng sanh thường trực, nhất là hạng chúng sanh chịu dưới quyền sai sử của nó. Nhưng tính chất khinh trọng khác nhau: tham ái tội nhẹ, khó diệt. Sân hận tội nặng dễ trừ. Si mê vừa nặng tội vừa khó dứt. Người xuất gia, mặc dù cuộc sống xa cách tham ái nhưng nếu tâm hồn còn bị sai sử thì con đường giải thoát vẫn còn ngưng trệ. Ví như khúc gỗ tươi, dù để nơi khô ráo cũng không phải là nhiên liệu phát hỏa.

Nghe xong bài pháp, nàng lãnh hội trọn vẹn và cảm nhận sâu xa. Nàng tự thẹn, vì thấy mục đích xuất gia của mình không phải để tẩy trừ phiền não hoặc để liễu ngộ Niết bàn mà chỉ vì muốn được gần gủi người yêu. Quả thật mình đã hành động liều lĩnh, thiếu sáng suốt, vì như thế có khác nào để dầu gần lửa, tránh sao cho khỏi bốc cháy một sớm một chiều.

Càng suy nghĩ càng xao xuyến, hoang mang. Vả lại, nàng cũng chưa thấy Ðại đức Ananđa có một cử chỉ đặc biệt nào đối với nàng. Ðành rằng sự gặp gở người yêu là hạnh phúc, song hạnh phúc ấy quá nhỏ nhoi nếu đem so sánh với nỗi buồn cô đơn dầy xéo, và nỗi khổ đọa đầy của kiếp sống cách ngăn. Chiếc áo cà-sa là bức tường ngăn cách giữa nàng và Ðại đức. Một sự ngăn cách hữu hình, nhưng không thể san bằng vượt thoát. Nàng cảm tưởng như bất thần bị tạt nước đá vào mặt. Tâm trạng nàng chán chường tuyệt vọng.

Nàng cố quên Ðại đức Ananđa bằng cách tích cực trau dồi kinh luật. Nàng rất sợ sự gián đoạn của thời gian và khoảng trống của không gian. Tuy đã cố gắng và phấn đấu nhưng hình ảnh Ðại đức Ananđa cứ hiện lên như thiên thần đối diện. Nàng hoàn toàn bất lực trong ý niệm chạy trốn tình yêu. Vì tình yêu là nam châm mà trái tim nàng là một loại kim khí.

Một hôm, nàng đưa một cô ni bạn đến gặp Ðại đức. Vốn bẩm tánh nhã nhặn lịch sự, Ðại đức tiếp nàng rất niềm nở, đạo tình. Nàng sung sướng và vui mừng chi xiết. Nàng cảm thấy cuộc đời sáng tươi, đáng yêu, đáng sống. Tâm trạng nàng như hoa xuân đang nở rộ, như lúa háp gặp mưa. Nhưng trước khi nàng ra về, Ðại đức nhắc khéo:
- Này cô, từ nay, nếu không có lý do chính đáng thì cô đừng nên đến đây. Còn nếu có điều chi thắc mắc liên quan đến giáo lý, thì nên hỏi, khi tôi đến dạy đạo tại quí viện.

Ðêm ấy nàng đã khóc rất nhiều. Có lẽ, nước mắt đã chảy ra suốt đêm trường. Nàng cảm thấy vừa buồn khổ, vừa tủi hờn, vừa đau đớn. Sự đau khổ trào dâng, nàng uất nghẹn nói một mình đứt quảng:
- Phải mà, ông ta có bao giờ nghĩ đến mình đâu. Lòng dạ gì mà như sắt đá!

Một ni cô ngủ gần nghe tiếng nấc giữa đêm khuya, bèn lật đật đến hỏi:
- Kokilà, có sao không?
- À, không có sao, Sumitra. Tôi vừa trải qua cơn ác mộng khủng khiếp quá. Thành thật cám ơn Sumitrà đã thương tình lo lắng cho tôi.
- Ðức Phật dạy, người rải lòng từ bi sẽ không nằm thấy ác mộng. Kokilà có nhập từ bi quán trước khi ngủ không?
- À, vậy là trước khi ngủ phải rải lòng từ bi thì sẽ không nằm mơ thấy ác mộng phải không?
- Phải.
- Ðêm nay, trước khi ngủ tôi đã quên, không nhập từ bi quán. Tôi thành thật xin lỗi vì đã vô tình làm kinh động giấc ngủ Sumitrà.

Sau khi Sumitrà đi rồi, Kokilà nghĩ đến thân phận bèo bọt của mình. Quả thật đời nàng là một chuổi dài bất hạnh. Lúc chưa xuất gia thì nàng là một kẻ nô tỳ bằng thể xác, đến khi được xuất gia thì nô lệ bằng tâm hồn. Thật vậy, người bị mắc bẫy tình thì tha nhân không gỡ được mà phải tự lực giải thoát. Nàng chợp mắt trong tình trạng uể oải, mỏi mòn khi trời gần sáng.
Tiếp theo kỳ tới…
Tình đời, Ý đạo
(Cuộc đời Thánh tăng Ananda)
Hòa thượng Hộ Giác