Và được
đưa vào Ðại tạng kinh thuộc Nam truyền. Ðây là một bộ luận trọng yếu thuộc Nam
phương Thượng Toạ bộ. Gần đây, nó được ngài Trưởng lão Nànamoli cũng đã dịch ra
Anh văn và xuất bản tại Colombo Ceylon, năm 1956.
Trọn bộ luận gồm 23 chương, nhằm giải thích giáo nghĩa của
Thượng Toạ bộ phái, thứ tự tổ chức và nội dung tương tự như Giải Thoát Ðạo luận
(Vimutti-magga, do ngài Upatissa soạn khoảng thế kỷ thứ III), nhưng bên trong
có xen những lời luận biện về kiến giải của sách ấy. Bản luận trình bày theo thứ
tự Giới, Ðịnh và Tuệ. Chương 1 và 2 luận về Giới. Từ chương 3 đến 13 luận về Ðịnh,
trình bày khúc chiết các phương pháp tu tập một cách có hệ thống. Chương 14 đến
23 luận về Tuệ. Trong đây, từ chương 14 đến 17 chủ yếu mô tả về 5 uẩn, Tứ đế,
Bát chánh đạo, và 12 nhân duyên. Ngoài ra, còn bàn tổng quát về 3 tướng vô thường,
khổ, và vô ngã. Các chương còn lại luận về các tuệ quán thanh tịnh một cách rất
tinh mật. Trước và sau sách, có bài tự thuật về nhân duyên tạo luận và dùng 3
vô lậu học Giới Ðịnh Tuệ như con đường đạt đến Niết bàn làm lời kết luận.
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với
phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư.
"Thanh Tịnh Ðạo Luận là một tác phẩm kinh điển vĩ đại nhất về phương diện
tâm linh của nhân loại. Tính chất trọng yếu của nó có thể xem như một mô hình
văn học tiêu biểu để cho các nhà học giả quốc tế dùng làm cơ sở."
Tóm lại, bộ luận này dùng ba vô lậu học Giới-Định-Tuệ làm
nhân tố để tu tập quán chiếu về tính chất vô thuờng, khổ, vô ngã của vạn pháp,
hầu đạt đến kiến thanh tịnh và tâm thanh tịnh, tức Niết bàn tịch diệt.
42. 17). Giới bốn loại, thứ tự:
(a) Giới như đức Thế tôn mô tả: "Vị tỷ kheo sống chế
ngự với sự chế ngự của giới bổn, đầy đủ hành xứ và chánh hạnh, thấy sợ hãi
trong những lỗi nhỏ, nên vị ấy lãnh thọ các học giới". (Vbh. 244), đây là
Giới thuộc sự chế ngự của giới bổn.
(b) Giới được mô tả như sau: "Khi mắt thấy sắc, vị ấy
không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng, những nguyên nhân gì do
đó mà nhãn căn không được chế ngự, khiến cho tham ái, ưu bi, các bất thiện pháp
khởi lên, vị ấy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn căn, thực hành sự hộ trì
nhãn căn. Khi tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân chạm xúc, ý nhận
thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng... Thực
hành sự hộ trì ý căn". (M. i, 180): đây là giới phòng hộ các căn môn.
(c) Sự từ bỏ những tà mạng, không vi phạm sáu học giới
liên hệ đến cách sinh sống, cái tà mạng lôi kéo theo những ác pháp như "lừa
đảo, ba hoa, hiện tướng chê bai, lấy lợi cầu lợi" (M. iii, 75): đây là giới
thanh tịnh mạng sống.
(d) Sự sử dụng bốn vật dụng, được thanh tịnh nhờ giác sát,
như khi nói: "Chân chánh giác sát, vị ấy thọ dụng y phục chỉ để che thân
khỏi rét". (M. i, 10): đây là giới liên hệ đến bốn vật dụng.
43. Sau đây là tóm tắt bình chú: (đoạn 42a) Chế ngự với sự
chế ngự của giới bổn tức Pàtimokkha, vì nó giải thoát (mokkheti) người hộ trì
(pàti) nó, vì nó làm cho vị ấy thoát khỏi (mocayati) các khổ của đoạ xứ. Chế ngự
là không phạm về thân, lời. Sống là xử sự trong bốn uy nghi.
44. Ðầy đủ hành xứ và chánh hạnh v.v... ý nghĩ như kinh
nói: "có tà hạnh và chánh hạnh". Gì là tà hạnh? Ðó là vi phạm về thân
lời, cả thân lẫn lời, những việc làm mà Giới cấm chỉ. Như một người sinh nhai bằng
cách đem cho tre, lá, hoa, quả, bột tắm, tăm xỉa răng, hoặc bằng cách nịnh hót,
ve vuốt, hoặc bằng cách làm các việc vặt, hay bất cứ tà mạng nào bị Thế tôn quở
trách. Chánh hạnh là gì? Là không vi phạm về thân và lời, về cả thân, lời. Là tất
cả sự chế ngự bằng giới. Là không sinh nhai bằng những cách như trên.
45. Hành xứ: có hành xứ thích đáng và không thích đáng và
không thích đáng. Gì là hành xứ không thích đáng? Như khi một người có những
dâm nữ làm chỗ lui tới, có đàn bà goá, gái già, bán nam bán nứ, tỷ kheo ni, hay
tửu quán làm chỗ lui tới; hoặc vị ấy sống có liên hệ với vua hay cận thần, ngoại
đạo, đồ đệ ngoại đạo, có liên hệ không thích đáng với cư sĩ; hoặc làm quen,
giao thiệp, tôn trọng những gia đình không tín tâm, phỉ báng thô lỗ, những người
muốn hại, muốn sự xấu xa, phiền não, không muốn sự chấm dứt hệ luỵ cho những tỷ
kheo, tỷ kheo ni, nam nữ cư sĩ. Ðấy là những hành xứ không thích đáng. Gì là
hành xứ thích đáng? Như một vị không có những dâm nữ làm chỗ lui tới... Quán rượu
làm chỗ lui tới,... Không liên hệ không thích đáng với cư sĩ; vị ấy làm quen,
lui tới, tôn trọng những gia đình có tín tâm, những người làm nguồn an ủi nơi
nào có bóng hoàng y, có gió mát của bậc trí, những người mong mỏi điều tốt
lành, hỉ lạc, mong chấm dứt hệ luỵ cho tỷ kheo, tỷ kheo ni, nam nữ cư sĩ. đấy
là hành xứ chân chánh. Như thế, vị ấy được gọi là "đầy đủ hành xứ và chánh
hạnh". (Vbh. 244-7).
46. Lại nữa chánh hạnh và hành xứ ở đây cần được hiểu như
sau. Tà hạnh có hai là tà hạnh về thân và lời. Gì là tà hạnh về thân? Ðó là
"Xử sự thiếu cung kính trước tăng, đứng ngồi, chen lấn với các vị thượng
toạ, ngồi chỗ cao, ngồi bịt đầu, đứng mà nói chuyện, vung tay khi nói, đi giày
dép trong khi các thượng toạ đi chân trần, đi chỗ cao trong khi các thượng toạ
đi chỗ thấp, đi trên đường chính trong khi các thượng toạ đi chỗ không có đường....
Ðứng ngồi thúc vào các vị thượng toạ, tranh chỗ với các tỷ kheo mới... Vào buồng
tắm.... Chưa hỏi các thượng toạ mà đã để củi trên lò, khoá cửa... Tại chỗ tắm,
vừa đi vừa vẫy nước nhằm các thượng toạ, đi vào chỗ tắm trước mặt các thượng toạ,
tắm vẩy nước vào các thượng toạ, tắm trước mặt các vị. Khi đi ra thì chen lấn
các thượng toạ, đi ra trước mặt họ, vào nhà cũng chen lấn đi trước, đẩy họ ra
mà chen tới.... Tại những nhà gia chủ có phòng riêng kín đáo, dành cho đàn bà
con gái, thì vị ấy đường đột đi vào, vuốt đầu trẻ con". (Nd 1. 228-9). Ðấy
gọi là tà hạnh về thân.
47. Ở đây, gì là tà hạnh về lời? "Ðó là khi một người
sử sự vô lễ trước chúng Tăng. Không xin phép những vị Thượng toạ mà nói về
Pháp, trả lời các câu hỏi, tụng giới, đứng nói vung tay. Vào nhà người gặp phụ
nữ hay thiếu nữ thì ba hoa kiểu như: "Ê chị X, có gì ăn đấy? Có cháo
không? Chúng tôi sẽ uống cái gì? Những gì là đồ ăn loại cứng? Những gì là đồ ăn
loại mềm? Chị sẽ cho ăn cái gì?" (Nd 1. 230). Ðấy là tà hạnh về lời.
48. Chánh hạnh cần hiểu là ngược lại với những điều trên.
Hơn nữa, vị tỷ kheo có lễ độ, biết kính nhường, có tàm quý, mặc hạ y, thượng y
một cách thích đáng, tác phong vị ấy làm khởi dậy niềm tin dù khi vị ấy đi tới
đi lui, nhìn trước hay nhìn hai bên, co hay duỗi, mắt vị ấy thường ngó xuống, vị
ấy có uy nghi, phòng hộ các căn môn, tiết độ trong sự ăn uống, chánh niệm tỉnh
giác, đầy đủ sự tự giác, ít muốn, biết đủ, tinh cần, cẩn thận gìn giữ chánh hạnh,
hết lòng cung kính những vị giáo thọ sư. Ðấy là chánh hạnh.
49. Hành xứ (thích đáng) gồm ba sự hỗ trợ làm hành xứ, sự
phòng hộ làm hành xứ, và sự buộc chặt làm hành xứ. Sự hỗ trợ làm hành xứ là, một
người bạn tốt nói mười loại chuyện: "Nói về ít muốn, biết đủ, ẩn dật, độc
cư, tinh tấn, giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến". (M. i,
145), người bạn từ đó ta được nghe những điều chưa nghe, sửa sai những điều đã
học, tẩy được những nghi vấn, làm chánh lại sự thấy biết, được đức tin, hoặc nhờ
học với người ấy mà ta tăng trưởng về tín, giới, văn, bố thí và trí tuệ. Ðây là
sự hỗ trợ làm hành xứ.
50. Sự phòng hộ làm hành xứ là, "một tỷ kheo khi đi
vào một ngôi nhà, một con đường, thì đi với mắt nhìn trước khoảng một tầm, chế
ngự nhãn căn, không nhìn voi, ngựa, xe, người bộ hành, đàn bà, đàn ông; không
ngó lên, ngó xuống, ngó chỗ này chỗ kia". (Nd 1.474).
51. Sự buộc chặt làm hành xứ là bốn niệm xứ mà tâm được buộc
vào, vì thế đức Thế tôn dạy: "Này các tỷ kheo, gì là hành xứ của một tỷ
kheo, quê hương vị ấy? Chính là bốn niệm xứ quán" (S. v, 148).
Ðược trang bị như vậy, được cung cấp đầy đủ như vậy, bằng
chánh niệm và (chánh) hành xứ này, nên vị ấy được gọi là "đầy đủ hành xứ
và chánh hạnh".
52 Thấy sự nguy hiểm trong những lỗi nhỏ (đoạn 42):
"Lỗi nhỏ" là như sự vô tình vi phạm một học giới nhỏ nằm trong Giới bổn,
hoặc có một ý nghĩ bất thiện khởi lên. Vị ấy chân chánh lãnh thọ và học tập các
học giới: Có bao nhiêu học giới, vị ấy đều học tập lãnh thọ một cách chân chánh
(samàdàya). Câu "một người chế ngự với sự chế ngự của Giới bổn"., giới
thuộc về sự chế ngự của Giới bổn được nêu bằng người, còn "đầy đủ chánh hạnh
và hành xứ" chỉ phương pháp thực hành nơi vị đã viên mãn giới.
53. (b) Bây giờ, hay nói về giới thuộc sự chế ngự các căn
môn, được nêu lên kế tiếp. Khi mắt thấy sắc: khi thấy một vật bằng nhãn thức có
khả năng thấy, nhưng nương vào con mắt dụng cụ nên lấy tên "mắt". Cổ
đức (Porànà) nói: "Con mắt không thấy vì nó không có tâm. Tâm không thấy
vì không có mắt. Nhưng khi có chạm xúc giữa căn và trần thì có thấy, do thức có
thị giác làm nền tảng vật lý cho nó. (Thị giác, kinh gọi là mắt tịnh sắc:
eye-sensitivity- chỉ đồng tử hay con ngươi). Vậy ý nghĩa thực sự ở đây là: khi
thấy sắc nhãn thức".
54. Không nắm giữ tướng chung, không để ý tưởng đàn bà hay
đàn ông, hay bất cứ tướng gì làm căn bản cho ô nhiễm, như tướng đẹp, v.v.. Vị ấy
dừng lại ở cái thấy, cũng không nắm giữ tướng riêng: vị ấy không để tâm bất cứ
khía cạnh nào như tay, chân, nụ cười, tiếng nói, nhìn thẳng, nhìn nghiêng,
v.v.. Gọi là những tướng chi tiết, vì chúng phát sinh ra từng ô nhiễm khác nhau,
vì chúng nổi bật. Vị ấy chỉ thấy cái gì thực sự đang ở đấy. Như trưởng lão
Nahàtissa ở Cetiyapabbata.
55. Khi trưởng lão đang trên đường đi từ Cetiyapabbata đến
Anuràdhapura để khất thực, có một nàng dâu của một ông trưởng giả gây lộn với
chồng nên khởi hành từ sáng sớm ở Anuràdhapura, trang sức lộng lẫy như tiên nữ,
để về nhà bà con. Nàng trông thấy trưởng lão, và do tâm hồn hạ liệt, bật lên một
tràng cười lớn. Ngạc nhiên không hiểu có chuyện gì xảy đến, vị trưởng lão nhìn
lên, và khi được "bất tịnh tưởng" nơi hàm răng của nàng ngài đắc quả
A-la-hán. Do đó có bài kệ:
Thấy xương hàm răng
Duy trì "cốt tưởng"
Chưa dời chân bước
Quả chúng vô sanh
Chồng nàng đi tìm nàng, gặp trưởng lão anh ta hỏi: "Bạch
đại đức, ngài có tình cờ trông thấy một người đàn bà nào qua đây không?"
Trưởng lão bảo:
"Không rõ ông hay bà
Vì ta không để ý
Nhưng trên đường cái này
Có đống xương di động".
56. Qua đó (đoạn 42) nghĩa là, vì nguyên nhân ấy mà có sự
không chế ngự của nhãn căn (và các căn khác). Nếu vị ấy không phòng hộ nhãn căn
nghĩa là không dùng cánh cửa chánh niệm mà đóng nhãn căn lại. Xâm nhập là đe doạ
vị ấy.
57. Không có gì là "chế ngự" hay "không chế
ngự" nơi nhãn căn, vì đối với mắt tịnh sắc không có tỉnh giác hay thất niệm.
Nhưng khi một sắc pháp đi vào sự chú ý của mắt, thì hữu phần khởi lên hai lần
và diệt, rồi đến duy tác ý giới làm nhiệm vụ hướng tâm (chú ý) khởi và diệt, rồi
đến nhãn thức với nhiệm vụ thấy, rồi đến dị thục ý giới làm nhiệm vụ tiếp thọ,
rồi đến dị thục vô nhân ý thức giới làm nhiệm vụ xác định, khởi và diệt. Kế tiếp
là tốc hành tâm. Trong đây, không có gì là chế ngự hay không chế ngự vào giai
đoạn hữu phần, hay bất cứ giai đoạn nào sau đó từ hướng tâm trở đi. Song khởi
hành từ giai đoạn tốc hành tâm, nếu không chánh hạnh, nếu có sự thất niệm, vô
tri, không kiên nhẫn, lười biếng khởi lên, thì gọi là "không chế ngự nhãn
căn".
58. Tại sao? Vì khi ấy có nghĩa, là căn môn không được
phòng hộ, hữu phần và các tâm thuộc lộ trình tâm cũng không được phòng hộ. Ví
như khi, bốn cổng của một đô thành không được bảo đảm, thì dù cho các cửa của
những ngôi nhà, kho chứa v.v... Bên trong thành được khoá kỹ, tài sản bên trong
thành cũng không được bảo đảm, vì kẻ cướp sẽ vào thành tha hồ vơ vét. Cũng vậy,
khi có sự không chánh hạnh, v.v... Khởi lên ở giai đoạn tốc hành, vì không chế
ngự, thì căn môn cũng không được chế ngự, hữu phần và các tâm thuộc lộ trình kể
từ hướng tâm, cũng không được phòng hộ. Nhưng khi giới, v.v... Khởi lên ở giai
đoạn tốc hành, thì như vậy căn môn cũng được phòng hộ hữu phần và các tâm thuộc
lộ trình cũng được phòng hộ ví như khi cổng thành đã chắc chắn, thì dù bên
trong, các cổng nhà ở, nhà kho v.v.. Không chắc, tài sản trong thành vẫn được
gìn giữ, bảo đảm, vì cổng thành đóng, kẻ cướp không thể xâm nhập.
Bởi thế, mặc dù sự chế ngự chỉ thực sự bắt đầu ở giai đoạn
(sát na) tốc hành tâm, song vẫn gọi là "chế ngự nhãn căn". Việc nghe
tiếng, ngửi mùi v.v... Cũng vậy.
59. Vậy chính loại giới này, có đặc tính là tránh nắm giữ
những tướng có thể kéo theo ô nhiễm liên hệ đến sáu trần, gọi là giới chế ngự
các căn môn.
Trích từ Thanh Tịnh Ðạo (The Path of Purification -
Visuddhimagga )
Luận sư Bhadantacariya Buddhaghosa
Chuyển dịch từ Pàli sang Anh ngữ: Trưởng lão Nanamoli
Chuyển dịch từ Anh ngữ sang Việt ngữ: Thích Nữ Trí Hải