“Không tỉnh thức” dùng ám chỉ một tâm trạng mà trong ấy
con người không nhận thức được những kinh nghiệm nội tâm của mình; nếu người ấy
hoàn toàn không nhận thức được tất cả những kinh nghiệm, kể cả những kinh nghiệm
cảm quan, người ấy thiệt giống như một con người Không tỉnh thức. Nói rằng con
người ý thức được những tình cảm nào đó, vân vân, có nghĩa là người ấy ý thức
được xét về những tình cảm này; nói rằng những tình cảm nào đó là Không tỉnh thức
có nghĩa là người ấy không ý thức được xét về những nội dung này. Chúng ta phải
nhớ rằng “Không tỉnh thức” không ám chỉ sự khiếm diện của bất cứ một xung lực,
tình cảm, dục vọng, hay sợ hãi nào, vân vân, mà chỉ ám chỉ sự không nhận thức
được những xung lực này. Khác hẳn với cách sử dụng ý thức và Không tỉnh thức
theo ý nghĩa tác dụng mà chúng ta vừa diễn tả là một cách sử dụng khác trong đó
chúng ta ám chỉ những địa điểm nào đó trong con người và những quan hệ với những
địa điểm này. Đây thường là trường hợp nếu chữ “cái ý thức” và “cái Không tỉnh
thức” được sử dụng. Ở đây “cái ý thức” là một thành phần của cá tính, với những
nội dung đặc biệt, và “cái Không tỉnh thức” là một thành phần khác của cá tính,
với những nội dung đặc biệt khác.
Không tỉnh thức theo ý nghĩa của
nhà Thiền, không nghi ngờ gì cả, nó là thứ huyền nhiệm, cái vô trí, và chính vì
thế mà nó có tính không khoa học hay trước thời có khoa học. Nhưng như thế
không có nghĩa là nó vượt ra ngoài tầm ý thức của chúng ta và là một cái gì chẳng
có liên hệ đến chúng ta. Thật ra, trái lại, nó là cái thân thiết nhất đối với
chúng ta, và chính vì cái thân thiết này mà chúng ta khó nắm bắt được nó, cũng
như mắt không tự thấy được mắt. Do đó để ý thức được cái Không tỉnh thức đòi hỏi
một sự tu tập đặc biệt về ý thức. Nói theo bệnh căn học, thì ý thức được đánh
thức khỏi Không tỉnh thức một thời gian nào đó ở trong vòng tiến hóa. Thiên
nhiên tiến triển mà không tự ý thức, và con người hữu thức phát sinh từ nó.
Ý thức là một cái nhảy, nhưng
cái nhảy không thể có nghĩa là một sự phân ly trong ý nghĩa vật lý của nó. Vì ý
thức luôn cộng thông và bất đoạn với Không tỉnh thức. Thật vậy, không có Không
tỉnh thức, ý thức không tác động được; nó mất hẳn cái nền tảng tác động. Đó là
lý do tại sao Thiền tuyên bố rằng Đạo là “cái tâm bình thường.” Với chữ Đạo dĩ
nhiên Thiền ngụ ý Không tỉnh thức, tác động thường trực trong ý thức của chúng
ta. Chẳng hạn như khi đói thì ăn, khi mệt thì nghỉ ngơi, khi buồn ngủ thì ngủ,
vân vân. Tuy nhiên, nếu đây là cái Không tỉnh thức mà Thiền nói đến như một thứ
huyền nhiệm và giá trị nhất trong đời sống con người như là động lực chuyển
hóa, chúng ta không thể nào không hoài nghi. Tất cả những hành động Không tỉnh
thức kia từ lâu vẫn bị phóng vào phạm vi bản năng phản xạ của ý thức phù hợp với
nguyên tắc của sự điều hòa về tinh thần.
Khi buồn ngủ thì tìm chỗ yên tĩnh, tắt đèn và nằm xuống
nghỉ ngơi cả thân lẫn tâm. Trong đạo Phật, chúng ta thường nghe nói về buông xả
và không bám víu vào thứ gì. Như vậy Đức Phật muốn dạy gì về buông xả? Ngài muốn
nói trong cuộc sống hằng ngày không cách chi mà chúng ta buông mọi vật mọi việc.
Chúng ta phải nắm giữ sự việc, tuy nhiên đừng cố bám víu vào chúng. Thí dụ như
chúng ta phải làm ra tiền cho chi tiêu trong đời sống, nhưng không bám víu vào
việc làm ra thật nhiều tiền mà bất chấp đến việc làm ra tiền bằng cách nào. Hành
giả làm bất cứ việc gì cũng nên làm với cái tâm xả bỏ. Đừng nên kỳ vọng sự đền
đáp hay tán dương. Nếu chúng ta xả bỏ một ít, chúng ta sẽ có một ít bình an. Nếu
chúng ta xả bỏ được nhiều, chúng ta sẽ có nhiều bình an. Nếu chúng ta xả bỏ
hoàn toàn, chúng ta sẽ được bình an hoàn toàn.
http://goo.gl/QiEqR Google blogger Sư Giới Tịnhđọcthêm nhiều tài liệu.