Sunday, May 14, 2023

NHẬN DIỆN CẢM GIÁC

 


NHẬN DIỆN CẢM GIÁC

 

Trước khi đọc, nghe bài viết này xin quý vị hiểu rõ chữ nhận diện.

Nghĩa:

Nhận diện: nhìn để nhận ra, chỉ ra đối tượng đang che giấu tung tích hay đối tượng đang cần tìm.

 

Cảm giác là một quá trình tâm lý phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của các sự vật hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào giác quan của loài người.

 

Các đặc điểm của cảm giác

Là một quá trình tâm lý vì nó có mở đầu, diễn biến và kết thúc trong khoảng thời gian xác định. Phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của sự vật hiện tượng cảm giác của con người mang tính xã hội: không chỉ phản ánh những sự vật hiện tượng trong tự nhiên mà cả những sản phẩm do con người tạo ra tùy thuộc vào đặc điểm nghề nghiệp và quá trình học tập rèn luyện.

Phân loại cảm giác theo đặc tính

Hướng ngoại

Vui, yêu, thích, dễ chịu, êm dịu, thoải mái, phấn khởi, lâng lâng, trong sạch, bình tĩnh, phóng khoáng, tin cậy, ham muốn, tình dục, bình an, tập trung, bình yên, ấm áp, lạnh giá, hạnh phúc, biết ơn, cố gắng….

 

Hướng nội

Buồn, ghét, giận, bực tức, hối tiếc, run sợ, khó chịu, lo lắng, mệt mỏi, ức chế, căng thẳng, có tội, hồi hộp, giật mình, nóng nảy, phục tùng, ích kỷ, sex, nghi ngờ, khinh dẻ, coi thường, ghen tị, tiếc nuối, ngại, e thẹn, nhớ nhung đợi chờ, chịu đựng, mất tập trung, khinh thường, trống trải, cô liêu, nản chí, suy nghĩ quá nhiều, tội nghiệp, bị lừa dối, hoài nghi ……

 

Hỗn tạp

Căng thẳng, trầm cảm…….

 

Phân loại theo giác quan cảm nhận

Cảm giác nghe (thính giác)

Cảm giác nhìn (thị giác)

Cảm giác sờ (xúc giác)

Cảm giác ngửi (khứu giác)

Cảm giác vị (vị giác)

Thần giao cách cảm (giác quan thứ 6)

Phân loại theo tính đối nghịch của các cảm giác

Vui, phấn khởi, lâng lâng – buồn, lo lắng, giận, bực tức

Yêu, thích – ghét

Dễ chịu, thoải mái – khó chịu, ức chế, căng thẳng

Trong sạch – có tội, tội lỗi

Bình tĩnh – hồi hộp, nóng nảy, giật mình, thót tim, run sợ

Phóng khoáng – keo kiệt

Tin cậy, tin tưởng – nghi ngờ, khinh dẻ, coi thường, hoài nghi, bị lừa dối

Tập trung – Sao nhãng, sao lãng

Ấm áp – lạnh lẽo

Bình an, bình yên, an toàn – không an toàn

Hạnh phúc – không hạnh phúc, trống trải, cô liêu, cô đơn

Biết ơn – không biết ơn

Cố gắng – Nản lòng

Ham muốn – không ham muốn

Khỏe mạnh – mệt mỏi

Tôn trọng – khinh thường

Kiêu hãnh – phục tùng, cảm phục

Muốn chinh phục – không muốn chinh phục

Tỉnh táo – không tỉnh táo, buồn ngủ

Ngại, e thẹn - Tự tin

Ghen tỵ - Chan hòa

Tiếc nuối -

Nhớ nhung, đợi chờ

Chịu đựng

Căng thẳng

Trầm cảm

Tình dục

Xúc động

Hay – dở

 

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

 

            "Vậy người thiền giả phải làm thế nào để nhận diện vào các cảm giác bên trong các cảm giác? Đó là trường hợp khi cảm nhận một cảm giác đau đớn thì người thiền giả ý thức minh bạch: 'Tôi cảm nhận một cảm giác đau đớn'. Khi cảm nhận một cảm giác thích thú thì người thiền giả cũng ý thức minh bạch: 'Tôi cảm nhận một cảm giác thích thú'. Khi cảm nhận một cảm giác không-đau-đớn-cũng-không-thích-thú, thì người thiền giả cũng ý thức minh bạch: 'Tôi cảm nhận một cảm giác không-đau-đớn-cũng-không-thích-thú' (xin lưu ý: bất cứ một sự cảm nhận nào phát sinh từ lục giác - mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và tâm thức - cũng đều tạo ra các cảm giác "đau đớn", "thích thú" hay "trung hòa", thí dụ một cơn ác mộng là một sự cảm nhận đau đớn của tâm thức, trông thấy một thân thể xinh đẹp là một sự cảm nhận thích thú của mắt; chạm vào một tấm lụa là một cảm nhận thích thú, sờ vào một vật cứng và nhám là một sự cảm nhận không thích thú; nhai và nuốt một miếng ăn nhưng không cảm nhận - với tất cả tỉnh táo - là ngon hay không ngon, là một sự cảm nhận trung hòa của vị giác, trái lại trong trường hợp khác, chẳng hạn như đang mải mê nói chuyện hoặc suy nghĩ miên man về các chuyện khác, nhưng vẫn ăn và nuốt, không ý thức được là mình đang nhai và đang nuốt những gì, ngon hay không ngon, thì đấy không phải là một cảm nhận trung hòa mà là một sự xao lãng, không nhận diện đúng mức vào các cảm giác hầu ý thức được sự vận hành của các giác quan.

 

Khi cảm nhận một cảm giác đau đớn trên da thịt thì người thiền giả ý thức minh bạch: 'Tôi cảm nhận một cảm giác đau đớn trên da thịt' (có nghĩa là các cảm nhận xúc giác liên quan đến "thế giới" hay môi trường "bên ngoài", có thể mở rộng các sự cảm nhận này liên quan đến các giác quan khác như mắt, tai, mũi, lưỡi). Khi cảm nhận một cảm giác đau đớn không phải là trên da thịt (tức là trong tâm thần, liên quan đến giác quan thứ sáu là tâm thức, chẳng hạn như đau buồn, nhớ nhung, thương tiếc, tức giận, sung sướng, v.v.) Thì người thiền giả cũng ý thức minh bạch: 'Tôi cảm nhận một cảm giác đau đớn không phải là trên da thịt'.  Khi cảm nhận một cảm giác thích thú trên da thịt thì người thiền giả ý thức minh bạch: 'Tôi cảm nhận một cảm giác thích thú trên da thịt'. Khi cảm nhận một cảm giác thích thú không phải là trên da thịt thì người thiền giả cũng ý thức minh bạch: 'Tôi cảm nhận một cảm giác thích thú không phải là trên da thịt'. Khi cảm nhận một cảm giác không-đau-đớn-cũng-không-thích-thú trên da thịt thì người thiền giả ý thức minh bạch: 'Tôi cảm nhận một cảm giác không-đau-đớn-cũng-không-thích-thú trên da thịt'.  Khi cảm nhận một cảm giác không-đau-đớn-cũng-không-thích-thú không phải là trên da thịt thì người thiền giả cũng ý thức minh bạch: 'Tôi cảm nhận một cảm giác không-đau-đớn-cũng-không-thích-thú không phải là trên da thịt'.

 

            "Đấy là cách mà người thiền giả nhận diện vào cảm giác bên trong cảm giác, hoặc các cảm giác bên ngoài cảm giác ("các cảm giác bên trong cảm giác" là các cảm nhận "thích thú", "khó chịu" hay "trung hòa", có nghĩa là một sự "nhận biết" đơn thuần của giác quan.   "Các cảm giác bên ngoài cảm giác" là cảm nhận nóng lạnh, cứng mềm chẳng hạn đối với da thịt, ánh sáng chói chang hay mờ ảo đối với mắt): hoặc cả hai - tức là bên trong và cả bên ngoài cảm giác. Tuy nhiên người thiền giả cũng có thể nhận diện vào các hiện tượng phát sinh liên quan đến cảm giác, và cả các hiện tượng tan biến liên quan đến cảm giác, hoặc cả hai vừa là hiện tượng phát sinh vừa là hiện tượng tan biến liên quan đến cảm giác (đây là cách ý thức được tính cách vô thường của các cảm giác). Hoặc người thiền giả cũng có thể duy trì sự nhận diện thật tỉnh giác là 'Có các cảm giác' cho đến khi nào đạt được sự hiểu biết và ghi nhận được điều đó (ý thức minh bạch về các cảm giác của mình và sự hiện hữu của chúng, nhưng không diễn đạt gì cả: thí dụ nhận biết được đúng là đang "có" các cảm giác nhưng không có "cái tôi" hay cái "của tôi" nào bên trong các cảm giác đó, cũng không gán cho các cảm giác ấy một ý nghĩa nào cả). Và người thiền giả luôn giữ được sự tự do (không tạo ra cho các cảm giác của mình một ý nghĩa nào, cũng không liên kết chúng với bất cứ gì trong môi trường bên ngoài), nhưng không dựa vào (nắm bắt hay căn cứ vào) bất cứ gì trong thế giới. Đấy là cách mà người thiền giả nhận diện vào cảm giác bên trong cảm giác.

 

(Tóm lại sự nhận diện vào cảm giác gồm có sáu phương thức dựa vào sáu giác quan và mỗi phương thức - tức là đối với mỗi giác quan - sẽ gồm có ba thể loại cảm nhận là thích thú, khó chịu và trung hòa, và người hành thiền phải hiểu rằng cảm giác là chỉ có thế: "thích thú", "khó chịu", "trung hòa" ngoài ra không có gì khác, không được gán thêm cho các cảm giác của mình bất cứ một sự diễn đạt nào) 

 

Là một thiền giả việc đầu tiên là phải tập cho mình

có ba yếu tố đó là:

1. Tấm lòng quảng đại. (Rộng rãi, có độ lượng.)

2. Tâm từ

3. Trí tuệ

Cái thiếu trong việc lúc nào cũng tập trung tâm ý trên

một đối tượng duy nhất chính là trí tuệ. Sự nhận diện

hoàn toàn của bạn phải gắn liền với sự nhận diện có trí tuệ.

Nhận diện có trí tuệ là gì?

Nó là sự nhận diện đi kèm với ba thiện căn.

Những thiện căn đó là gì?

 

Chúng là sự quảng đại, tâm từ và trí tuệ. Điều này

có nghĩa rằng khi bạn nhận diện đến một cái gì đó, hãy

luôn luôn cố gắng để sự nhận diện của mình không

có tham, sân, hoặc si xen lẫn trong đó, bạn hãy

nhận diện với ý tưởng quảng đại, lòng từ và trí tuệ. Đây được gọi là ba thiện căn trong khi tham, sân, si được gọi là ba bất thiện căn. Đừng để tâm trí của bạn bị ảnh hưởng bởi các bất thiện căn khi bạn nhận diện đến một cái gì đó. Hãy để cho những suy nghĩ về lòng quảng đại, tâm từ và trí tuệ chiếm lĩnh tâm trí của bạn trong khi

nhận diện đến bất cứ cái gì.

Khi nhận diện đến nồi niêu, bát đĩa trong khi đang rửa, bạn có thể không cần chút gì đến tâm từ, sự rộng lượng hay trí tuệ đối với chúng. Bạn đang trau dồi chánh niệm

không phải cho nồi, bát đĩa mà dành cho chúng sinh.

Bạn nên nhận diện đến bất kỳ ý nghĩ nào sinh khởi về

chính bản thân của mình, hoặc về bất kỳ chúng sanh nào khác.

Hãy chánh niệm trong khi mặc quần áo, ăn, uống, nói

chuyện với một ai đó, lắng nghe âm thanh, nhìn thấy

một đối tượng, và đi bộ hoặc lái xe.

 

Khi bạn hoàn toàn nhận diện với trí tuệ quán sát, tham

lam, sân hận và si mê của bạn biến mất, bởi vì trong sự nhận diện của bạn đang có sự quảng đại, tâm từ và

trí tuệ vận hành.

Những ý nghĩ rộng lượng, tâm từ và trí tuệ của bạn

có sức mạnh làm giảm thiểu tham, sân, si khi bạn

đang làm bất kỳ một công việc gì.

 

Chỉ có một điều duy nhất là thực đó là mỗi người chúng ta có sáu loại căn tánh khác nhau: Ba thiện căn và ba bất thiện căn. Ba bất thiện căn là tham, sân, và si; đối nghịch với chúng là ba thiện căn: rộng lượng, từ bi và trí tuệ. Hãy quán chiếu cho kỹ vấn đề này, nếu chúng ta thực sự hiểu nó và không còn thắc mắc gì về nó, ta sẽ dễ dàng chấp nhận sự hiện diện của sáu loại căn tánh này trong mỗi con người chúng ta.

Sẽ chẳng còn khó khăn gì nữa một khi chúng ta đã nhìn thấy được chúng (sáu căn tánh) trong chính bản thân của chúng ta. Chúng là căn nguyên của mọi hành động, cung cách đối xử của chúng ta. Hiểu được như vậy chúng ta sẽ có thể soi lại chính mình một cách trung thực hơn, chúng ta sẽ không còn trách móc mình về những thói xấu, cũng như không tự khen ngợi mình về những tánh tốt, chỉ đơn giản chấp nhận sự hiện hữu của tất cả chúng- xấu lẫn tốt- trong chính chúng ta. Và do vậy, chúng ta cũng có thể chấp nhận người khác một cách sáng suốt hơn cũng như dễ dàng thông cảm với họ hơn. Chúng ta sẽ không còn đau khổ vì những thất vọng và chúng ta sẽ không đổ lỗi do bởi chúng ta không còn sống trong một thế giới nơi mà chỉ có sự hiện hữu của trắng hoặc đen mà thôi - một thế giới mà chỉ có sự hiện diện rạch ròi của ba bất thiện căn hoặc ba thiện căn đối nghịch. Một thế giới như vậy sẽ không hiện hữu ở bất kỳ nơi đâu và chỉ một con người duy nhất có khả năng tự rạch ròi như vậy, đó là một bậc giác ngộ.

Vấn đề chủ yếu ở đây là ranh giới giữa các thiện căn và bất thiện căn trong mỗi con người chúng ta. Ranh giới phân biệt này được chúng ta điều chỉnh một cách hết sức vi tế, vì vậy chỉ có một sự khác biệt rất nhỏ giữa chúng không đáng để chúng ta coi trọng. Điều quan trọng là chúng ta đều có cùng một công việc phải làm: đó là nuôi dưỡng những thiện căn và nhổ tận gốc những gì bất thiện.

Nhìn bề ngoài chúng ta rất khác nhau. Đó cũng là một ảo tưởng. Thật ra, chúng ta đều có cùng những vấn đề và các khó khăn để giải quyết. Điều khác nhau duy nhất giữa mỗi chúng ta là bề dày của quá trình tu tập của mỗi người. Việc tu tập có thể đã diễn ra trong nhiều đời kiếp trước trước đó sẽ giúp cho chúng ta có khả năng quán chiếu rõ ràng hơn, chỉ vậy thôi.

Suy nghĩ sáng suốt chỉ đến khi chúng ta thanh lọc được các cảm xúc của chính mình và đây là một công việc khó khăn mà chúng ta cần phải làm.  Nhưng việc này chỉ có thể thực hiện và có được sự thành công khi động lực của nó không bắt nguồn từ một sự chấn động về mặt cảm xúc, mà đơn thuần là một sự quán chiếu rõ ràng, trung thực mà chúng ta làm vì chính bản thân mình.

 

Những gi quý vị đọc hoặc nghe ở đây chỉ là VĂN, hãy TƯ DUY nó rồi thực hành đưa đến sự hiểu biết có thể gọi là NGỘ.