CHÙA TAM BẢO
323 Phan Chu Trinh
Mùa An cư - Phật Lịch 2553 (Dương Lịch 2009)
HƯỚNG DẪN THIỀN NIỆM HƠI THỞ (Buổi thứ 25 – Thứ
Tư 04/8/2009)
Do Ngài Hoà Thượng Pháp Sư - Đại Thiền Sư
ASHIN KOVIDA
Thiền Lâm Viện Pa-Auk - Tiểu Bang Mon –
Mawlamyine – Myanmar.
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa
ÂN ĐỨC PHÁP BẢO (HỒNG ÂN PHÁP BẢO) (có 6)
Svākkhato
(1) Bhagavata Dhammo, Saṅdiṭṭhiko (2), Akāliko (3),
Ehipassiko
(4), Opaneyyiko (5), Paccattaṃ veditabbo viññūhi (6)
(01)
* ÂN ĐỨC THỨ NHẤT: Svākkhato (KHÉO THUYẾT)
- Bhagavatā: Đức Thế Tôn
- Dhammo: Đạo Tuệ (4), Quả Tuệ (4), Niết Bàn (1), Pháp Học (1): tổng cộng là 10
- Svākkhato:
(Pháp) được Đức Thế Tôn Khéo thuyết cho những
người mong đạt được sự an lạc tối thượng (Niết Bàn): Khi tín thành lắng nghe Pháp ấy làm tiêu tan những nhiệt
não, nếu hành theo thì được an lạc, và khi thực hành xong rồi thì đạt được sự
an lạc tối thượng, đó là sự an lạc của Niết Bàn.
- Svākkhato: Thánh Pháp được Đức Thế Tôn khéo thuyết giảng.
- Svākkhato: Pháp được Đức Thế Tôn khéo
thuyết giảng toàn hảo cả 3 chặng: chặng đầu - chặng giữa - chặng cuối.
-Svākkhato: Pháp đem lại sự thành tựu
những tất cả những Đức Thiện lành, tránh được những lỗi lầm, Pháp rất rõ ràng
trong sáng và thanh tịnh.
(02)
* ÂN ĐỨC THỨ HAI: Saṅdiṭṭhiko (TỰ CHỨNG) (THIẾT THỰC HIỆN TIỀN)
- Saṅdiṭṭhiko = saṅ (saṃ): tự mình + diṭṭhiko
(thấy):
Giáo
Pháp được thuyết giảng bao nhiêu, mỗi khi đã thực hành rồi thì đạt được cho đến
Đạo Tuệ, Quả Tuệ của các bậc Thánh nhân. Hành giả phát sinh đức tin vì tự mình
thấy được, tự mình chứng ngộ được Pháp một cách rõ ràng chứ không phải vì tin
theo lời người khác nói. (Rõ ràng ở đây có nghĩa là biết mình sẽ không còn tái
sinh vào 4 ác đạo nữa (quả vị Thánh Nhập lưu), biết chỉ còn một kiếp duy nhất (Thánh Nhất Lai),…)
(Tự Chứng)
- Saṅdiṭṭhiko: Thực hành Tam học (Giới-Định-Tuệ) có thể cho kết quả an lạc ngay
trong đời hiện tại. (Thiết Thực Hiện Tiền)
(03) * ÂN ĐỨC THỨ BA: Akāliko:
(PHI THỜI GIAN) (VƯỢT THỜI GIAN)
(a: phi + kāliko: thời
gian)
- Khi mà
đã cho Quả thì cho lập tức chứ không phải chờ 5 hay 7 ngày sau gì cả. Đạt được
Thánh Đạo thì đạt được ngay tức thì, không chậm trể.
- Là khi
chứng được Thánh Đạo thì Thánh Quả lập tức trổ liền theo sau. (Ví dụ: trên lộ
trình tâm của một vị hành giả tại thời điểm chứng đắc Đạo - Quả Nhập Lưu:
Bha - na
– da – ma – pa – u – nu – go – mag – pha – pha - bha
hoặc:
Bha - na
– da – ma – pa – u – nu – go – mag – pha – pha – pha - bha)
*** Viết tắt:
1. Bha - (Bhavangacitta): Hộ kiếp tâm (viết
tắt bha)
2.
Na - Bhavaṅgacalana: Hộ kiếp tâm rung động
(viết tắt na)
3.
Da - Bhavaṅgupaccheda: Hộ kiếp tâm bị cắt đứt (viết tắt
da)
4.
Ma - Manodvāravajjanacitta: Ý môn hướng tâm (viết
tắt ma)
5.
Pa - Parikamma: Chuẩn bị Nhập Lưu Thánh
Đạo Tâm sẽ phát sinh (viết tắt pari)
6.
U - Upacāra: Cận Nhập Lưu Thánh Đạo
Tâm sẽ phát sinh (viết tắt upa)
7.
Nu - Anuloma: Thuận dòng theo 37 pháp để chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo (viết
tắt anu)
8.
Go - Gotrabhu: Chuyển dòng từ phàm
nhân sang Thánh Nhân (viết tắt got)
9.
Mag - Sotāpattimaggacitta: Nhập Lưu Thánh Đạo Tâm
1 sát-na tâm (viết tắt mag)
10.
Pha- Sotāpattiphalacitta: Nhập Lưu Thánh Quả Tâm
2-3 sát-na tâm (viết tắt pha)
11.
Bhavaṅgacitta: Hộ kiếp tâm, chấm dứt
Nhập Lưu Thánh Đạo lộ trình tâm.
Câu hỏi 65: Bạch
Ngài xin cho chúng con biết thế nào là một trú xứ thích hợp đối với một vị Tỷ
Kheo và hành giả?
Trả lời:
Pāṭirūpadesavāsa – liên quan đến nơi cư trú thích hợp của quý vị Phật tử, là những nơi
mà quý vị có thể quy y Tam Bảo được phải không? Có Pháp Bảo và có Tăng Bảo.
Thêm nữa là nơi mà chúng ta có thể thân cận những bậc Thiện Trí, người có thể
hướng dẫn cho chúng ta đến được với Tam Bảo cao quý. Nghĩa là những nơi thích
hợp để tạo trữ công đức phước lành.
Còn đối với các vị Tỷ Kheo: nơi thích hợp là nơi có thể khất thực dể
dàng, là nơi mà chư Tăng hoà hợp, (hoà hợp giới, hoà hợp kiến). Nơi có vị vua
tốt, quan tốt, những vị hiền vương, thánh vương… những vị quan hiền, quan
thánh… trị vì.
Trong Visuddhimagga (Thanh
Tịnh Đạo cuốn 1) có 7 điều thích hợp nữa cho một vị hành giả mà tôi muốn đề
cập, đó là:
1.
Āvāsasappāya: Trú xứ thích hợp
2.
Gocarasappāya: khất xứ thích hợp
3.
Bhassasappāya: Ngôn ngữ thích hợp
4.
Puggalasappāya: Người thích hợp
5.
Bhojanasappāya: Vật thực thích hợp
6.
utusappāya: thời tiết thích hợp
7.
iriyāpathasappāya: Oai nghi thích hợp.
+ Sau đây tôi sẽ nói về đề tài: BỐN “TVĀ”:
1. Buddhaṃ - pasīditvā: tôn kính Phật
2. Dhammaṃ - sutvā: nghe Pháp
3. Dānaṃ - datvā: Bố thí
4. Sīlaṃ - samādiyitvā: giữ Giới, tu Giới
Tvā trong Pāḷi là vĩ ngữ
trạng từ. Bốn Tvā này là bốn điều mà
Phật tử chúng ta thường thực hành: Đó là (1) tôn kính Phật, (2) nghe Pháp, (3) Bố
thí, và (4) tu Giới. Đây là lời giáo hoá chung cho những Phật tử có khả năng
thực hành được. Khi thành tựu đủ 4 điều này thì không cần phải nói làm gì nữa. Trước
đây, vào thời Đức Phật, đã có rất nhiều người không thành tựu hết cả 4 điều
này, họ chỉ thành tựu 1 hoặc 2 hoặc 3 thôi, mà vẫn có kết quả tái sanh Thiên giới
và tại Thiên giới ấy các vị ấy đã chứng ngộ được Niết Bàn.
Sau đây tôi sẽ trích dẫn Kinh điển để làm rõ từng Pháp một:
1/ Buddhaṃ - pasīditvā: Có lòng tôn kính Phật.
Tôn kính Đức Phật có quả lành lớn lao như thế nào quý vị có biết
không? Vào thời Đức Phật, tại thành Rājagaha
(Vương Xá) có một bà cụ già tên là Caṇḍārī
tuổi đã ngoài 80, bà chẳng có lấy một việc Phước Thiện nào: chẳng lễ Phật,
chẳng thính Pháp, chẳng bố thí, chẳng tu tập Giới gì cả.
Một ngày kia, vào buổi sáng, sau khi Đức Thế Tôn nhập Đại Bi Định và
quan sát thế gian tìm người tế độ, hình ảnh của Bà già Caṇḍarī xuất hiện trong Trí quán của Ngài. Sau khi Ngài quan sát
thì được biết rằng vào chính cái ngày hôm ấy bà lão này sẽ chết và đoạ sanh vào
địa ngục. Ngài biết rằng Bà già ấy không có lấy một tư lương phước thiện nào nên
phổ duyên hoá độ, bằng cách dẫn theo 500 vị Tỳ kheo đi bát ở trong thành Vương xá.
Ngài lựa đúng lúc Bà già vừa đi ra khỏi thành thì bắt đầu nhắm đến thành Vương
xá khởi hành. Vào lúc Bà già rời khỏi thành vương xá, bà gặp được Đức Thế Tôn. Trước
đây bà chưa từng được gặp Đức Thế Tôn, chưa từng nghe Pháp, chưa từng làm phước
cúng dường, chưa từng tu trì Giới. Bà muốn tránh đường Đức Thế Tôn cùng 500 vị
Tỳ kheo. Đức Thế Tôn biết và dạy trưởng lão Moggallana
làm theo lời Ngài, ông đứng trước bà già và nói: “Này bà lão, có Đức Thế
Tôn đây, tâm bà có cung kính hay, xong Bà hãy đến đãnh lễ Đức Thế Tôn - Đấng Vô
song trong thế gian ấy đi?” Ông khuyên bà lão như thế. Nghe xong bà lão buông
gậy xuống rồi 3 lần đảnh lễ Đức Thế Tôn. Đãnh lễ xong, bà lão đi tiếp con đường
của mình, còn Đức Thế Tôn thì tiếp tục vào thành Vương Xá khất thực. Không lâu
sau đó, có con bò húc chết bà lão. Nhờ nghiệp lành duy nhất đảnh lễ Đức Thế
Tôn, Bà được sanh về cõi trời ba mươi ba (Tāvatiṃsa).
Đấy, một nghiệp thiện duy nhất trong cuộc đời của Bà là cung kính đảnh lễ Đức
Thế Tôn mà có quả lành như vậy đấy, chúng ta nên mang ân Đức Phật, nên tôn kính
Đức Thế Tôn phải không?
Những cụ ông, cụ bà chúng ta, đã không biết bao lần cung kính đãnh
lễ Đức Thế Tôn, vậy làm sao mà không có được Phước báu sanh về cõi trời phải
không?
2/ Dhammaṃ
Sutvā: Thính Pháp.
Một thuở Đức Thế Tôn đương ngự tại Thành Rājagaha (Vương Xá), trong khu rừng trúc. Khi Ngài đang thuyết Pháp,
có một trẻ chăn bò đến nghe Pháp của Ngài. Trẻ ấy đứng cạnh một hồ nước, trong
hồ có một con ếch. Trẻ ấy nó đứng chống cây gậy xuống rồi nghe Pháp, chẳng may
trúng phải mình con ếch trong hồ nước. Con ếch chết. Nó chết trong khi nghe
giọng thuyết Pháp của Đức Phật. Pháp của Đức Phật đang thuyết giảng: Thiện hay
Bất Thiện nó không hề biết. Nó chỉ nghe âm thanh mà thôi. Rồi nó sanh về Tam
Thập Tam thiên (Tāvatiṃsa) là một vị
Thiên Nam
có 1000 quần hầu xung quanh. Thiên Tử ấy nghỉ ngợi quán sát xem tại sao lại
được sanh về thiên giới, tại sao lại có được nhiều người hầu kẻ hạ như vậy. Khi
quán sát xong vị Thiên Tử ấy mới biết được rằng: đời sống trước đó, vị ấy đã là
một loài súc sanh, một con ếch, nhờ nghe Pháp của Đức Thế Tôn mà được sanh về
Thiên Giới. Biết được Giáo Pháp của Đức Phật có Oai lực rất lớn nên vị Thiên Tử
muốn cùng với quần hầu của mình đến để tiếp tục thính Pháp do Đức Thế Tôn
thuyết giảng. Đức Thế Tôn khi ấy vẫn chưa thuyết xong thời Pháp. Đức Thế Tôn
bèn hỏi vị Thiên Tử ấy: “Này Thiên tử, ông từ đâu đến?” Khi được hỏi như thế,
vị Thiên tử thuật lại mọi chuyện cho Đức Phật. Đức Phật nghe xong thì tiếp tục
thuyết giảng Pháp cho vị Thiên tử ấy nghe. Dứt thời Pháp vị ấy chứng đắc được
Đạo Quả Nhập Lưu (Sotāpanna). Giáo
Pháp của Đức Thế Tôn có oai lực vô cùng lớn phải vậy không?
Vào thời Đức Phật Kassapa (Cadiếp) cũng vậy, có 500 con dơi, ở trong
một hang động. Trong động có các vị Thánh Tăng đang tụng đọc Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), tụng về Paṭṭhāna (Phát Thú). Các con dơi ấy một
thời gian dài nghe âm thanh rồi chết. Khi chết cả 500 con đều được sanh về cõi Tam
Thập Tam Thiên (Tāvatiṃsa) là 500
Thiên nam. Vào thời Đức Phật Thích Ca (Đức Phật Gotama), 500 vị thiên nam lại tái
sanh vào trong 500 gia đình giàu có là 500 nam tử, cả 500 nam tử đều xuất gia
theo Ngài Sariputta là 500 vị tỳ kheo.
Khi Ngài Sariputta (Xá lợi phất) vừa
thuyết giảng Vi Diệu Pháp xong, cả 500 vị đều chứng đắc Đạo Quả Alahán. Vi Diệu
Pháp mà 500 con dơi đã từng nghe đều giống Vi Diệu Pháp mà 500 vị tỳ kheo được
học. Vì thế chúng ta nên tìm hiểu, lắng nghe Vi Diệu Pháp ấy. Vì Pháp Vi Diệu
mà Đức Phật đã thuyết giảng suốt 3 tháng tại cõi trời Tāvatiṃsa rất sâu rộng, chúng ta không thể nghe được. Nên khi Đức
Phật thuyết lại cho Ngài Xá Lợi Phất,
rồi Đức Xá lợi Phất truyền dạy Vi Diệu Pháp ấy cho đến ngày nay là Vi Diệu Pháp
từng giống với Vi Diệu Pháp mà 500 con dơi đã nghe. Chính là nghe Pháp mà lợi
ích lớn như vậy đấy. Chúng ta mang ân rất lớn đối với Giáo Pháp của Đức Thế Tôn
phải không? Vì thế mỗi lần giáo giới, các vị Hoà thượng thường hay nhắc nhở:
“Hãy tôn kính Đức Phật, hãy thường thính Pháp, những thiện nghiệp này thường
cho kết quả là lợi ích thiên giới.”
3/ Dānaṃ datvā: Bố thí.
Điều này thì rõ ràng rồi phải không? Vào thời Đức Phật những câu chuyện bố thí
cúng dường và được sanh thiên rất là nhiều. Sau đây là một câu chuyện trong
“Chuyện Thiên Cung - Tiểu Bộ Kinh”:
Tại thành Vương Xá có một bà già rất nghèo. Bà là một nữ nông dân
làm đồng. Trong nhà làm bắp rang xong rồi mang đi ra đồng để ăn. Khi mang đi
trên đường, bà gặp ngài Mahā Kassapa (Đại Cadiếp) đang khất thực trên
đường. Khi gặp Ngài, bà nghĩ: “Ta gặp Bậc Trưởng Thượng trên đường, mà chẳng bố
thí được gì. Cũng vì không bố thí được mà ta cứ mãi nghèo đói. Hôm nay ta sẽ
dâng cho Ngài mớ bắp rang này.” Nghĩ vậy nên bà dâng cúng mớ bắp rang ấy cho
Ngài. Vừa đến đồng ruộng, một con rắn bò ra cắn bà chết. Nhờ thiện nghiệp ấy, bà
được sanh về thiên giới là một vị thiên nữ có tên là Lājādevī (Tiên nữ Bắp), có người hầu kẻ hạ rất đông, Thiên cung nguy
nga rộng lớn. Trước cảnh ấy, vị thiên nữ quán lại và biết được chuyện dâng bắp
trong quá khứ của mình. Nhờ thiện nghiệp ấy mà được quả lành thù thắng như vậy.
Quả lành của Bố thí thật là lớn thay. Ông Cấp-cô-độc (Anāthapiṇḍika), ông Nandiya cũng đã từng dâng cúng đất đai, trú xá. Ngay cả khi những
vị ấy chưa qua đời mà tại thiên giới đã có thiên cung đang đón chờ. Đại thần thông
lực, Ngài Moggallana, đi dạo chơi thiên
giới thì thấy các thiên nữ trong một toà thiên cung nguy nga lộng lẫy, hỏi: “Thiên
cung này là thiên cung của ai vậy?” Rồi các thiên nữ ấy nói: “Thiên cung này là
của Ông Nandiya, ông ấy vẫn còn trên
trần thế đấy. Thiên Cung này là của ông ấy, quần hầu đây là những người đang
đợi ông ấy. Ngài có về dưới ấy xin báo dùm ông ấy một tiếng.” Về đến thành Vương
Xá, Ngài Moggallana báo cho Ông Nandiya biết. Rồi Ngài Moggallana hỏi Đức Thế Tôn: “Bạch Ngài,
một người chưa thân hoại mạng chung sao thiên giới đã có sẵn thiên cung cho vị
đó vậy, chuyện ấy có thể nào có chăng?” Đức Thế Tôn nói: “Này Moggallana, không phải chính ông chứng
kiến, và tự tai nghe thấy rồi còn hỏi Như Lai làm gì nữa?” Đức Phật xác nhận
bằng cách hỏi lại Ngài Moggallana như
vậy. Vì thế chúng ta những người đang còn trong thời Giáo Pháp cuả Đức Như Lai,
những người đã từng bố thí cúng dường dù, lộng, trú xá, khi chưa thân hoại mạng
chung, những thiên cung ấy đã có sẵn cả rồi, quần hầu cũng đã có sẵn và đang
chờ trên ấy cả rồi phải không?
4/ Sīlaṃ samādhi yittvā: Tu trì
giới, hành giới. Đó là Giới nào?
Năm giới: (1) không sát sanh, (2) không trộm cắp, (3) không tà dâm, (4)
không nói dối, (5) không uống rượu và các chất say. Hay tu trì 8 giới, 10 giới…
Thưở trước tại Kinh thành Mithila,
có một vị vua tên là Sādhina, trị vì
quốc độ bằng 5 vương pháp (5 giới). Vì trị vì quốc độ bằng 5 vương pháp, nên
dân chúng trong quốc độ sống rất thái bình an lạc. Bá tánh trong quốc độ ấy sau
khi thân hoại mạng chung đều sinh về cõi trời Tam Thập Tam Thiên. Thiên vương
Tam Thập Tam Thiên cứ hỏi hết những người vừa sanh về quốc độ của mình rằng họ
từ đâu đến đều được biết họ từ Mithila
tới. “Ông từ đâu tới?” “Tôi từ Miṭthila
tới.” Hỏi người nào người ấy cũng đều nói rằng mình từ Mithila đến, làm hội chúng chư thiên cõi trời Tāvatiṃsa càng ngày càng tăng thịnh. Tam Thập Tam Thiên Vương biết
rằng hiền vương trong quốc độ Mithila
đang hộ trì quốc độ bằng vương pháp. Ngài thầm nghĩ: “Ta sẽ mời ông ấy đến đây
để ta được nghe Pháp.” Nghĩ rồi Tam Thập Tam Thiên Vương cho thắng cổ thiên xa
cùng với các thiên tử đi đến quốc độ Mithila
thỉnh mời Hiền Vương Sādhina. Hiền
Vương ấy đã thuyết Pháp gì? Ông đã thuyết về 5 giới. Thiên Vương Tam Thập Tam Thiên
hết sức cung kính Hiền Vương Sādhina
nên muốn chia sẽ cả một nữa thiên châu của mình. Dù là người nhưng Hiền Vương Sādhina vẫn được chia một nữa thiên
quốc. Chuyện như vậy trong Kinh chỉ có một mà thôi. Vì sao? Vì Ông trị vì bằng
5 Pháp Giới, ông thuyết bằng 5 Pháp Giới. Vì thế tu trì giới là một trong những
huấn từ mà các Bậc trưởng thượng thường hay nhắc nhở đến hàng cận sự.
Catuvinā buddhaṃ passīyitvā,
dhammaṃ suttvā,
dānaṃ datvā, sīlaṃ samādhi
yittvā
Catu = 4 (tvā), vinā: không ngoài,
Sagamagga phalaṃ lābha: đạt được thiên giới, Đạo Tuệ, Qủa Tuệ và Niết bàn,
Santo: Những bậc hiền nhân, atthi:
có,
Dịch nghĩa: Có những bậc Hiền nhân đã đạt được Phúc lạc Thiên Giới,
Đạo Tuệ, Quả Tuệ và Niết Bàn không ngoài 4 Pháp ấy.
Trong thời Đức Thế Tôn còn tại thế, số người chỉ thành tựu 1 trong 4
Pháp trên và được sanh Thiên sau khi thân hoại mạng chung thì rất là nhiều. Còn
nếu thành tựu cả 4 Pháp trên, thì không cần gì để nói nữa. Chỉ thành tựu một
Pháp thôi cũng có thể thành tựu được Niết Bàn. Rất nhiều vị hành giả là Phật tử
nơi đây đang thực tập để thành tựu được 1,… 2,… hay 3, hay cả 4.
Bhāvanā bhāvatvā: Khi đã
thực hành 1 trong 4 pháp trên vị ấy thực hành các Pháp tăng thượng tâm, (nỗ lực
thực hành các Pháp tiến tâm (bhāvanā)),
những người ấy đều thực hành thiền một cách dễ dàng. Những người gặp được Giáo
Pháp của Đức Phật hôm nay quả là may mắn. Nguyện cầu cho tất cả hành giả sớm
chứng ngộ Niết bàn an lạc tối thượng.
Dānaṃ dadantu saddhāya,
sīlaṃ rakkhantu sabbadā
Bhāvanābhiratā hontu,
tarantu bhava sāgaraṃ.
Dịch nghĩa:
Nguyện cầu cho tất cả chúng
sanh,
Có lòng tịnh tín và bố thí,
luôn được hộ trì bằng Giới hạnh,
nổ lực hành Pháp Tăng
Thượng Tâm
thực hành Thiền Định và
thiền Quán (Samatha-Vipassana),
vượt qua được đại dương
sanh hữu,
đến bờ kia Niết Bàn tối
thượng
bằng con thuyền bát chánh thù
thắng.
Sādhu!Sādhu!Lành thay.
(Dứt buổi thứ 25)