SỰ TOÀN HẢO CỦA GIÁO PHÁP QUA CÁC KỲ KẾT
TẬP TAM TẠNG
(Bài
giảng cuả Đại Lão Thiền Sư U KOVIDA
- Thiền
Lâm Viện Pa-Auk, Tiểu Bang Mon, Myanmar)
- TK Nguyên Tuệ dịch.
Giáo Pháp là những lời dạy, những giáo huấn của Đức Phật.
- Sự xuất hiện của một Đức Phật thực thụ
- Sự xuất hiện của Giáo Pháp thực thụ do Đức Phật ấy tuyên thuyết
- Của Chúng Hiền Đức Tăng (có Giới+Định+Tuệ) hành trì Giáo Pháp ấy.
Khi có đầy đủ 3 yếu tố này,
thì mới có Giáo Pháp (Sāsanā). Từ sau
lúc Đức Thế Tôn nhập Niết Bàn (Parinibbāna)
2553 năm, cho đến nay, những lời dạy của Đức Phật vẫn còn mà không hề bị mai
một. Đó là nhờ sự bảo vệ và duy trì vững vàng Giáo Pháp như việc học thuộc
lòng, truyền tụng, thông làu, khắc cốt ghi tâm, thuyết giảng, hành trì, học
hỏi, (Ganthadūra: sự liên tục duy trì
Pháp Học), đã bảo vệ được Giáo Pháp trước những nguy hiểm, trước những manh nha
dị giáo.
Vì vậy chúng ta nên tôn
vinh Ân Đức Tăng Bảo vô biên ấy.
Tam Tạng Kinh Điển (bằng
sách) tổng cộng có 40 quyển, được truyền tụng thuộc lòng tổng cộng là 450 năm
cho đến khi được kết tập trên các lá buông lá bối, (được duy trì, truyền lại
trên lá buông lá bối tổng cộng 1965 năm), sau đó là được khắc lên các phiến đá
cho đến nay mà truyền thống học thuộc lòng vẫn còn được duy trì. (Ở Miến Điện
cuối thế kỷ 20 đầu 21 được biết đến có 13 vị thông làu Tam Tạng Kinh Điển – ghi
chú người dịch)
1/ Cuộc kết tập tam tạng lần thứ nhất (Paṭhamasaṅgāyanā):
Năm đầu tiên của giáo Pháp, phật lịch năm thứ nhất, năm 544
trước công nguyên (tr CN).
Ba tháng sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, Đại Trưởng lão Mahākassapa làm chủ trì Đại hội kết tập.
Có 500 vị Alahán tham dự. (một vị Alahán có khả năng biết toàn
bộ kinh điển mặc dầu trước lúc đắc đạo quả Alahán vị ấy không thuộc lấy một bài
kinh, vì một vị Alahán có được tứ tuệ phân tích. Ghi chú người dịch: Ngài
Trưởng Lão Cūḷapanthaka (vào thời Đức
Phật), Teingu Sayadaw (Miến Điện -
viên tịch cách đây không lâu),…
Nơi chốn: Ấn độ (xứ Māgadha,
thành Vương Xá Rājagaha)
Quốc Vương hộ độ: Ājātasatu (vua A xà thế)
Hình thức kết tập: truyền
tụng thuộc lòng.
Thời gian: trong vòng 7
tháng
Lí do có cuộc kết tập: Một vị tỳ kheo tên là Subhaddha đã thốt lên rằng: “Đức Phật đã
không còn nữa, chúng ta có thể sống thế nào tuỳ thích.” Đây là lí do manh nha
làm phương hại đến Giáo Pháp nên quý Ngài Trưởng Lão đã tổ chức cuộc kết tập Tam
Tạng để truyền tụng trình bày Pháp (Kinh+Luận) và Luật này.
Vào lúc ấy, tại Miến
Điện đương thời cũng có vị vua tên là Jambūdīpadhaju,
trị vì vương quốc Takaungtintwe.
2/ Cuộc kết tập tam tạng lần thứ hai (Dutiyasaṅgāyanā):
Phật lịch thứ 100, năm
477 trước công nguyên.
Đại Trưởng lão Mahā Yasa
chủ trì
Hội Chúng Tăng tham dự
gồm 700 vị Alahán
Địa điểm: Ấn Độ (kinh
thành tiểu quốc Vesalī)
Quốc vương hộ độ: Kālāsoka
Hình thức kết tập: Truyền
tụng thuộc lòng
Thời gian: trong vòng 8
tháng
Lí do có cuộc kết tập:
Các vị Tỳ kheo xứ Vajjī, quốc độ Vesalī nói lên quan điểm riêng của mình
về vấn đề adhammavatthu (10 sở phi
pháp) (như giữ muối cách đêm, ăn quá ngọ lên 1 lóng tay ….)
Tại Miến Điện lúc bấy
giờ là vị vua Dvattapaung trị vì quốc
độ Sarekhettarā.
3/ Cuộc kết tập tam tạng lần thứ ba (Tatiyasaṅgāyanā):
Phật lịch thứ 235, tức
là năm 308 trước công nguyên
Đại Trưởng Lão Mahāmoggali Puttatissa chủ trì,
Hội Chúng Tăng tham dự
gồm 1000 vị Alahán
Địa điểm: Ấn Độ, tiểu quốc
Pāṭaliputta
Quốc vương hộ độ: Sīridhammāsoka
Hình thức kết tập: Truyền
tụng thuộc lòng
Thời gian kết tập: 9
tháng
Lí do: 60.000 vị Tỳ
Kheo đã gia nhập giáo đoàn và truyền bá những tư tưởng phi Pháp, phi Luật;
những tà kiến (pha trộn những dị giáo) là nguyên nhân chính khiến có cuộc kết
tập này.
Đương thời tại Miến
Điện là đức vua Yanpaung trị vì quốc
độ Sarekhettarā.
4/ Cuộc kết tập tam tạng lần thứ tư (Catutthasaṅgāyanā):
Phật lịch năm thứ 450, tức là năm 94 trước công nguyên
Đại Trưởng Lão Mahādhammarakkhita
chủ trì
Hội Chúng Tăng tham dự: 500 vị
Nơi chốn: Đảo quốc Tích Lan (Sīrilaṅka
> Sri Lanka), tại động Āloka,
Mahāyajunapuda.
Thời gian kết tập: 1 năm
Hình thức kết tập: Ghi lại thành Kinh tự trên những lá bối, lá
buông
Lí do: Trong một thời gian dài 21 năm, nội chiến, nạn đói khát,
dịch hoạ thiên tai liên tiếp xảy ra ở nhiều nơi. Các vị Đại Trưởng Lão muốn duy
trì giáo Pháp, e sợ Giáo Pháp sẽ biến mất trong tương lai nên muốn một lần nữa
tuyên tụng lại Giáo Pháp.
Quốc Vương hộ độ: Vaṭṭagāmaṇi
Đương thời tại Miến là vị vua có tên Kyakgaungsa (Nga-t-pa), trị vì quốc độ Sarekhettarā.
5/ Cuộc kết tập tam tạng kinh điển lần thứ năm (Pañcamasaṅgāyanā):
Phật lịch năm thứ 2415, Miến lịch năm thứ 1233, năm 1871 Dương
Lịch
Đại Trưởng lão Bhaddanta
Jāgarābhivaṃsa (Tipiṭakadhāra mahārājāvirājaguru)
tu viện Dakkhiṇārāma ở thành phố Mandalay làm chủ trì
Hội Chúng Tăng tham dự: 2400 vị
Địa điểm: Đất nước Miến điện, Thành phố Mandalay, Điện Vàng Phía Đông.
Quốc vương Hộ Độ: Vua Mindon
Thời gian kết tập: 5 tháng 3 ngày,
Hình thức kết tập: Tuyên tụng xong thì cho đêm khắc Tam Tạng
Kinh lên trên các phiến đá. Công trình này hoàn tất mất 7 năm 6 tháng 14 ngày.
(Các phiến đá ấy vẫn còn cho đến nay. Tổng cộng 729 phiến đá cao gần 2m, khắc 2
mặt đặt tại cụm bảo tháp Kutodăw gần
Điện Vàng Swenandaw, Mandalay – ghi
chú người dịch).
Lí do kết tập: Cuộc kết tập đi đến thống nhất các dị bản khác
nhau của Tam Tạng Kinh Điển, và lưu lại lâu hơn bằng việc khắc lên trên đá để
lưu trữ lâu hơn Tam Tạng trên lá bối, lá buông. (Hiện nay thì phiên bản điện tử
Kết Tập Tam Tạng lần thứ năm đã được số hoá thành 1 đĩa DVD để dể bề đối chiếu
với lần 6).
Đương thời tại Ấn Độ, Đức vua Rāgyindarāparā trị vì.
6/ Cuộc kết tập tam tạng kinh điển lần thứ sáu (Chaṭṭhasaṅgāyanā)
Phật lịch năm thứ 2498, Miến lịch năm thứ 1316, dương lịch 1954
Đại Trưởng Lão Bhaddanta
Revatābhivaṃsa (Abhidhajamahāraṭṭhaguru) tu viện Nyaungyan, thành phố Mandalay
chủ trì cuộc kết tập.
Hội chúng Tăng Tham dự: Chư Tăng của 5 nước Phật Giáo Theravāda gồm 2500 vị
Địa điểm: Tại đất nước Miến Điện, Thành phố Rangoon
(Yangon) (người Việt gọi là Thành phố Ngưỡng
Quang), tại động đá Mahāpāsāṇa,
Hộ độ cuộc kết tập - Thủ tướng U Nu
Thời gian: 2 năm thì hoàn tất.
Hình thức kết tập: Ấn hành xuất bản trên giấy thành bộ Tam Tạng
Kinh.
Lí do: Duy trì Giáo Pháp thanh tịnh không pha tạp và phát triển
ra khắp nơi trên thế giới.
Đương thời tại Ấn độ khi ấy có ông W. Neru là thủ tướng.
Kết Tập
(Saṅgāyanā)
|
Phật lịch
|
Tây lịch
|
Chủ trì
|
Chư Tăng
tham dự
|
Thời gian
kết tập
|
địa điểm
|
Vua hộ độ
|
Lần 1
|
1
|
544 tr CN
|
Đại Trưởng Lão
Mahākassapa
|
500 vị Alahán
|
7 tháng
(truyền miệng)
|
Māgadha
(thành Rājagaha)
|
Ājātasatu
|
Lần 2
|
100
|
447 tr CN
|
Đại Trưởng Lão
Yasa
|
700 vị Alahán
|
8 tháng
(tụng miệng)
|
Thành Vesālī,
Tu viện Vāḷukārāma
|
Kālāsoka
|
Lần 3
|
235
|
308 tr CN
|
Đại Trưởng Lão
Mahā Moggaliputtatissa
|
1000 vị Alahán
|
9 tháng
(truyền miệng)
|
Thành Pāṭaliputta,
tu viện Asokārāma
|
Sīridhammāsoka
|
Lần 4
|
450
|
94 tr CN
|
Đại Trưởng Lão
Mahā
Dhammarakkhita
|
500 vị
|
1 năm
(chữ viết
trên lá bối)
|
Tích Lan
Mahāyajanapuda
|
Vaṭṭagāmaṇi
|
Lần 5
|
2415
|
1871
|
Bhaddanta
Jāgarābhivaṃsa
|
Tăng Chúng
2400 vị
|
7 năm
6 tháng
14 ngày
(Khắc lên đá)
|
Miến Điện,
Điện vàng Phía đông (Swenandaw),
|
Mindon
|
Lần 6
|
2498
|
1954
|
Bhaddanta
Revatābhivaṃsa
|
Tăng Chúng
từ 5 nước
Theravāda
2500 vị
|
2 năm
(chữ viết
lên giấy)
|
Yangon, Kaba Aye,
Đại động Mahāpāsaṇa
|
Thủ tướng U Nu
|