MÀ MỜI TA NGỒI XUỐNG VÀ LẮNG NGHE NÓ:
sợ hãi mất mát,
sợ không đạt được,
sợ bị bỏ lại,
sợ không đủ tốt…
Tất cả đều là những cơn sóng trong lòng, và mỗi cơn sóng ấy cần được ôm ấp bằng ánh sáng của chánh niệm.
ĐỐI DIỆN SỰ SỢ HÃI VỚI CÁI BIẾT LẶNG LẼ
Trong khi hành thiền, khi thấy một niệm sợ hãi khởi lên - thiền giả đừng vội dẹp nó, đừng tìm cách vượt qua.
HÃY CHỈ THẦM LẶNG NHẬN DIỆN:
“Đây là cảm giác sợ mất.”
“Đây là tâm đang bị ám ảnh bởi thành công - thất bại.”
“Tâm đang co lại.”
“Tâm đang mong cầu.”
ĐÓ CHÍNH LÀ QUAY VỀ VỚI CÁI BIẾT TRONG SÁNG, NHƯ THIỀN GIẢ ĐÃ TỪNG THỐT LÊN:
“Thiền giả có thể trở về với cái biết trong sáng nơi tâm.”
Về bản chất, sợ hãi là bóng của “cái tôi”
Thốt lên là tiếng kêu của tâm, là sự bùng nổ của nhận thức, là khi mà mọi thứ trở nên rõ ràng và tự nhiên. Trong thiền, thốt lên là khi ta buông bỏ mọi suy nghĩ, mọi phân biệt, và chỉ đơn giản là "là" . Đó là tiếng kêu của sự giải thoát, của sự trở về với bản chất thật sự của mình.
SỢ MẤT MÁT LÀ VÌ CÒN CHẤP THỦ VÀO CÁI “CÓ”:
“Tôi phải có thành tựu.”
“Tôi phải có tình thương.”
“Tôi phải có chỗ đứng.”
Sợ thất bại là vì còn định danh mình qua những thành tích.
NHƯNG CÀNG HÀNH THIỀN MIÊN MẬT, THIỀN GIẢ SẼ DẦN THẤY:
Cái tôi chỉ là một ý niệm, không phải thực thể.
Và nếu không còn “tôi” để bảo vệ, thì sợ hãi sẽ không còn gì để nắm giữ.
MỘT CÁCH THỰC TẬP CỤ THỂ KHI CÓ SỢ HÃI:
Ngồi yên, thở nhẹ và theo dõi:
Thở vào: Tâm đang lo sợ.
Thở ra: Thiền giả vẫn ở đây - không chạy trốn.
Thở vào: Không có gì là chắc chắn.
Thở ra: Thiền giả buông theo dòng vô thường.
Thở vào: Không có ai để thành công.
Thở ra: Không có ai để thất bại.
Thiền giả có thể thở như vậy vài phút mỗi ngày, như một sự trở về, để giải tan lớp sương mù sợ hãi đang che mờ tâm thức.
KINH VÔ ÚY
Phật dạy về sự không sợ hãi
“Ai thấy được bản chất vô thường,
vô ngã của vạn pháp,
người ấy không còn gì để sợ hãi.”
(Tăng Chi Bộ Kinh - Aṅguttara Nikāya)
Khi đã thấy rằng thành công cũng vô thường, thất bại cũng vô thường, thì thiền giả chỉ cần sống trong từng bước chân, không còn bị trói buộc bởi kết quả, và sự thảnh thơi từ đó mà sinh ra.
Thiền giả vừa chạm đến một cửa ngõ rất sâu trong thiền tập: cái gọi là “thành công”, “thất bại”, và “cái tôi” - ba yếu tố tưởng như riêng rẽ, nhưng thật ra bện chặt nhau và là gốc rễ của biết bao nỗi sợ, áp lực và khổ đau trong đời sống làm người.
Trong ánh sáng của thiền quán, ta không chỉ nhìn “thành công hay thất bại là gì”, mà còn nhìn sâu ai là kẻ đang thành công, thất bại - tức vấn đề của cái tôi.
Sư xin chia sẻ một số gợi ý để thiền giả quán chiếu:
“Thành công” và “thất bại” là những ý niệm do tâm tạo ra.
TRONG THIỀN QUÁN, THIỀN GIẢ CÓ THỂ TỰ HỎI:
“Thành công là gì?” - Có phải là sự khen ngợi? Sự hơn người? Tiền tài? Vị trí?
“Thất bại là gì?” - Có phải là mất mát? Không được nhìn nhận? Không như kỳ vọng?”
Tất cả những thứ đó đều là hiện tượng trôi nổi, không có thực thể cố định. Hôm nay người ta xem là thành công, mai có thể là thất bại. Người ta ngợi khen, rồi chê bai.
Cái gọi là “thành công” chỉ là một cơn gió thuận.
“Thất bại” chỉ là một cơn gió ngược.
Tâm vẫn là mặt hồ - nếu không động bởi hai chiều gió ấy.
THIỀN GIẢ CÓ THỂ QUÁN:
“Thành công chỉ là một trạng thái tâm được tạo bởi duyên.”
“Thất bại cũng là một trạng thái tâm được tạo bởi duyên.”
“Cả hai đều không phải là tôi.”
CÁI TÔI - KẺ BÁM VÍU VÀO THÀNH CÔNG VÀ TRÁNH NÉ THẤT BẠI
Chính vì có cái “tôi” - nên mới có nhu cầu “tôi phải thành công”, “tôi không được thất bại”.
KHI THIỀN QUÁN, THIỀN GIẢ HÃY HỎI:
“Cái tôi ấy từ đâu mà có?”
“Nó có mặt thật sự, hay chỉ là một thói quen nhận lầm?”
Thiền giả sẽ thấy rằng cái gọi là “tôi” thật ra chỉ là một tập hợp của THÂN - CẢM THỌ - TRI GIÁC - HÀNH - THỨC (ngũ uẩn). Tất cả đều vô thường, thay đổi từng sát-na.
THIỀN GIẢ CÓ THỂ THỞ VÀ QUÁN:
“Không có cái tôi thật,
chỉ có thân này đang ngồi,
tâm này đang thở,
và ý niệm ‘tôi’ chỉ là một làn mây.”
“Cái tôi không thật, thì thành công, thất bại gắn với nó - cũng không thật.”
QUÁN NHƯ MỘT DÒNG SÔNG - KHÔNG BÁM, KHÔNG CHỐNG
Khi thấy một cảm giác “ĐƯỢC”, “MẤT”, “HƠN”, “THUA” khởi lên trong thiền, thiền giả có thể thầm lặng nói:
“Đây là thành công đang đi qua.”
“Đây là thất bại đang đi qua.”
“Chúng đến rồi đi - như mây bay ngang trời.”
HÃY THỞ NHẸ VÀ QUÁN:
“Tôi không phải là thành công.
Tôi không phải là thất bại.
Tôi là người đang tỉnh thức trước cả hai.”
THIỀN GIẢ CÓ THỂ LẤY MỘT THỜI THIỀN TRONG NGÀY ĐỂ CHỈ QUÁN MỘT ĐIỀU:
“Không có ai để thành công, không có ai để thất bại.”
Lập lại, rồi buông bỏ câu đó - và chỉ còn cái biết lặng lẽ đang hiện diện.
TRONG THIỀN MINH SÁT (VIPASSANĀ), ĐỨC PHẬT DẠY RÕ TRONG NHIỀU BÀI KINH NHƯ KINH VÔ NGÃ TƯỚNG (ANATTALAKKHAṆA SUTTA), KINH TƯƠNG ƯNG (SAṀYUTTA NIKĀYA) RẰNG:
“Cái gì có sinh, thì có diệt.
Cái gì vô thường, thì là khổ.
Cái gì vô thường, khổ - thì không thể là ‘cái tôi’, ‘của tôi’, hay ‘tự ngã của tôi’.”
Vì vậy, tất cả các tướng - sắc, thọ, tưởng, hành, thức - đều là pháp hữu vi, do duyên sanh mà có, và luôn biến đổi. Thiền giả nhìn thấy rõ từng tướng ấy là vô thường, không đáng bám víu, chính là ngũ uẩn, là danh sắc, là các pháp hiện tượng do duyên sanh.
Thấy được tính chất vô thường - khổ - vô ngã của chúng, tất cả những thứ chúng ta thường cho là chắc chắn hoặc thật có thực đều chỉ là ảo ảnh, phù du, không tồn tại vĩnh viễn hoặc thực chất. Thấy rõ như vậy giúp thiền giả không bị lừa dối bởi các hình thức bên ngoài, hoặc ý niệm cố chấp về sự tồn tại của vật chất hay tâm thức của mọi hiện tượng.
Thiền giả đạt đến sự nhận thức rõ ràng về chân lý, về thực tại thật sự vượt khỏi những ảo ảnh của thế gian.
Trong tư tưởng Phật Giáo Nguyên thủy, không có khái niệm “Như Lai” như một bản thể tuyệt đối, mà “Như Lai” (Tathāgata) là cách Đức Phật gọi mình khi đã thoát khỏi mọi dính mắc với ngã và các pháp hữu vi.
“Như Lai” (Tathāgata) là người đã đi đến, đã vượt qua, không còn bị chi phối bởi các uẩn, không còn bị các pháp điều kiện trói buộc.”
DO VẬY, KHI THẤY RẰNG:
Sắc - không phải là ta
Thọ - không phải là ta
Tưởng - không phải là ta
…và thấy rõ mọi pháp hiện tượng đều không có tự ngã.
Thì thiền giả lúc đó “thấy Như Lai” - không phải thấy một người tên “Như Lai”, mà là thấy như thật, không qua khái niệm, không bám víu, không để tâm bị ràng buộc bởi các đối tượng của nhận thức.
Nói cách khác, “thấy Như Lai” trong Thiền chính là cái thấy đúng pháp - yathābhūta ñāṇadassana (hiểu biết và thấy biết mọi thứ đúng như bản chất của chúng).
KHI HÀNH THIỀN QUÁN, THIỀN GIẢ CÓ THỂ ÁP DỤNG CÂU NÀY NHƯ SAU:
KHI CẢM THỌ KHỞI LÊN (DỄ CHỊU, KHÓ CHỊU, TRUNG TÍNH):
“Đây là cảm thọ - vô thường - không phải tôi.”
KHI HÌNH ẢNH, Ý NGHĨ, TÂM HÀNH KHỞI LÊN:
“Đây hiểu là việc nhận biết và chấp nhận các hiện tượng hoặc đặc tính bên ngoài của sự vật, nhưng chưa chắc đã hiểu được bản chất thực sự của chúng - đang sinh - đang diệt - không còn bám víu vào cái "tôi”.
KHI MỘT TRẠNG THÁI TÂM DỄ CHỊU PHÁT SINH, ĐỪNG BÁM:
“Đây là đối tượng - nếu bám vào, sẽ khổ.”
KHI THẤY RÕ TẤT CẢ ĐẾN VÀ ĐI:
“Thấy các đối tượng, mà không dính vào đối tượng - tức đang thấy như thật.”
Đó là sự tuệ tri trong tinh thần thiền quán - không phải hiểu biết như một thứ bản thể cố định, mà là hiểu biết vượt ngoài mọi dính mắc vào ngã, pháp, đối tượng.
LIÊN HỆ VỚI KINH TẠNG (SUTTA PITAKA):
“Sắc là vô thường, cảm thọ là vô thường, tưởng, hành, thức là vô thường.
Cái gì vô thường, là khổ; cái gì khổ - là vô ngã.
Cái gì vô ngã - không nên xem là: ‘Đây là của tôi, đây là tôi, đây là tự ngã của tôi.’”
(Kinh Vô Ngã Tướng - Anattalakkhaṇa Sutta - SN 22.59)
NHƯ VẬY, NẾU NHÌN THEO THIỀN:
Là thấy rõ vô thường - vô ngã của ngũ uẩn.
Là thấy các hiện tượng nhưng không chấp trước, không đồng hóa.
Là cái thấy như thật, thấy sự không dính mắc, chính là trí tuệ giải thoát.