NHỮNG BIẾN CỐ TỰ NHIÊN VÀ KHỔ ĐAU
Không chỉ ở mức cá nhân mà cả cộng nghiệp.
Để thấy rõ nhân quả vận hành trong những hiện tượng như động đất, tai nạn, lửa cháy, bệnh tật, hay sức khỏe.
Nhân quả trên bình diện cá nhân (nghiệp riêng - puggalika kamma)
Trên phương diện cá nhân, mỗi người đều mang theo dòng nghiệp lực được tạo ra bởi thân, khẩu, ý trong quá khứ và hiện tại.
Hành động thiện - từ tâm, bố thí, giữ giới, sống chánh niệm - dẫn đến quả là an ổn, ít bệnh tật, thọ mạng lâu, được giúp đỡ, sống nơi an lành.
Hành động bất thiện - sát hại, tham lam, sân hận, vô minh - dẫn đến quả là bệnh tật, tai nạn, sợ hãi, tổn hại thân mạng, mất an ổn.
Khi thiền giả nhìn sâu, họ sẽ thấy rằng mọi quả đều có nhân tương ưng - không gì xảy ra ngẫu nhiên.
Nhưng điều này không có nghĩa là ai gặp tai nạn hay bệnh tật đều “bị phạt”; mà là nghiệp cũ trổ quả đúng duyên, giống như hạt giống gặp mưa nắng mà nảy mầm.
Nhân quả trên bình diện tập thể (cộng nghiệp - sammatta kamma)
Những hiện tượng như động đất, lửa cháy lớn, chiến tranh, dịch bệnh thường liên quan đến nghiệp chung của nhiều chúng sinh cùng sống trong một cõi.
Kinh Tăng Chi Bộ (Aṅguttara Nikāya) có nói:
“Khi tâm chúng sinh đầy sân hận, đất rung; khi tâm chúng sinh đầy tham ái, nước dâng; khi tâm chúng sinh si mê, gió loạn.”
Tức là, cộng nghiệp của con người và chúng sinh tạo nên sự mất quân bình trong tâm thức, và năng lượng đó biểu hiện ra ngoài thành mất quân bình trong thiên nhiên.
Thiền quán giúp ta thấy rõ điều này: khi tâm con người rối loạn, tham sân si bùng lên, tự nhiên chung quanh cũng bị ảnh hưởng.
Ngược lại, khi tâm an tịnh, từ bi, hiền hòa - năng lượng ấy góp phần làm dịu đi dòng cộng nghiệp.
Cái thấy rốt ráo qua thiền quán (thiền giả sẽ quan sát các hiện tượng, cảm xúc, suy nghĩ mà không chấp chặt hay cố gắng phân biệt rõ ràng, mà thay vào đó nhận thức chúng như những hiện tượng rỗng không - suññatā), không có thực thể cố định. Qua đó, giúp giảm bớt sự chấp trước, tham ái và chấp thật vào thế giới và bản ngã, từ đó đạt tới sự an lạc, trí tuệ và giải thoát.
Ở tầng sâu hơn, khi thiền giả an trú trong chánh niệm và trí tuệ quán chiếu, thấy rõ rằng:
Động đất, tai nạn, bệnh tật… không có “người bị hại” thật sự - chỉ là duyên sinh của các pháp.
Thân này cũng là một hợp thể tạm của đất, nước, gió, lửa. Khi tứ đại mất quân bình thì gọi là bệnh hay tai nạn, nhưng trên thực tướng, chỉ là pháp vận hành theo duyên.
Ở đây, không còn ai để trách, không còn gì để oán.
Chỉ còn sự sáng biết tĩnh lặng, thấy rằng sinh - diệt là tự nhiên, nhân - quả là hiển nhiên, và lòng từ bi tự nhiên khởi lên với tất cả chúng sinh còn đang chịu khổ trong vòng ấy.
Tóm lại:
Trên mặt tục đế: mọi tai ương đều có nguyên nhân - do nghiệp riêng và nghiệp chung.
Trên mặt chân đế: chỉ có các pháp duyên khởi, không ai tạo, không ai chịu - chỉ là dòng nhân quả vận hành vô ngã.
Trên mặt tu tập: thấy vậy để không oán, không sợ, không trốn tránh, mà sống tỉnh thức, từ bi, gieo những nhân lành cho đời và cho tất cả.
Đây là một điểm then chốt trong cách Phật giáo nhìn về đời sống.
Nếu triển khai sâu hơn một chút, ta sẽ thấy rằng:
Mọi tai ương đều có nguyên nhân - không có gì xảy ra ngẫu nhiên.
Theo luật nhân quả (Kamma-Niyāma), không một hiện tượng nào - dù là nhỏ nhất - xảy ra mà không có nhân duyên tương ứng.
Điều này có nghĩa là:
Một người gặp tai nạn, bệnh tật, hay may mắn, an ổn, một vùng đất gặp thiên tai, dịch bệnh, hay được mùa, an bình, đều không phải ngẫu nhiên, mà là nhân quả đang chín muồi, theo quy luật tự nhiên, không ai thưởng hay phạt.
Trong Kinh Trung Bộ, Đức Phật từng dạy rằng:
“Chúng sinh là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là chỗ nương tựa. Hễ tạo nghiệp thiện hay ác, chính họ sẽ thừa tự nghiệp ấy.”
(MN 135 - Tiểu nghiệp phân biệt kinh)
Nghiệp riêng (nghiệp cá nhân - puggalika kamma)
Đây là nghiệp do chính mỗi người tạo ra và trổ quả nơi riêng mình.
Ví dụ:
Người thường nuôi dưỡng tâm sân, hay sát hại, dễ gặp tai nạn hoặc bệnh tật.
Người sống từ bi, biết giúp người, giữ giới, thường có sức khỏe và đời sống an ổn.
Những điều ấy không phải “trừng phạt” hay “thưởng”, mà là năng lượng nhân quả chín đúng thời, giống như hạt giống nảy mầm khi gặp đủ nắng và mưa.
Nghiệp chung (cộng nghiệp - sammatta kamma)
Cộng nghiệp là nghiệp của nhiều người cùng tạo ra.
Khi nhiều chúng sinh cùng gieo một loại nhân - như sân hận, tham lam, tàn phá thiên nhiên, thiếu từ bi - thì quả sẽ hiện ra trên quy mô tập thể:
Đất đai khô cằn, khí hậu biến động, động đất, lũ lụt, chiến tranh, dịch bệnh…
Kinh Tăng Chi Bộ (Aṅguttara Nikāya) có nói:
“Khi chúng sinh nhiều tham dục, nước tăng; khi chúng sinh nhiều sân, đất rung; khi chúng sinh si mê, gió nổi.”
Điều này cho thấy: thiên nhiên phản chiếu tâm của con người.
Tâm từ bi, biết tiết chế, biết sống hài hòa - cộng nghiệp dần trở nên an lành.
Tâm bất thiện, ganh ghét, ích kỷ - cộng nghiệp tạo ra bất ổn.
Ý NGHĨA TU TẬP TRÊN MẶT TỤC ĐẾ
Thấy rõ rằng mọi tai ương đều có nhân quả giúp ta:
Không oán trời, không trách người - vì biết tất cả chỉ là nghiệp chín.
Phát khởi tâm từ và tinh tấn hành thiện - để chuyển hóa dòng nghiệp hiện tại và tạo nhân lành cho tương lai.
Giữ chánh niệm - vì biết rằng từng ý nghĩ, lời nói, hành động đều đang gieo nhân.
Như Đức Phật dạy:
“Nếu muốn biết quá khứ, hãy nhìn hiện tại; nếu muốn biết tương lai, hãy nhìn những gì đang làm bây giờ.”
Chính là cửa ngõ từ “thấy theo nghiệp” sang “thấy theo pháp”, tức là thấy bằng tuệ giác vô ngã.
Ta có thể nhìn từng lớp như sau:
“Chỉ có các pháp duyên khởi” - bản chất của hiện tượng
Trên mặt chân đế (paramattha-sacca), Đức Phật chỉ ra rằng:
tất cả những gì ta gọi là “tôi”, “người khác”, “thiên tai”, “bệnh tật”, “tai nạn”, v.v…
thực ra chỉ là các pháp (dhamma) sinh khởi do duyên - không có một chủ thể đứng sau điều khiển.
Ví như:
Động đất là do duyên của đất, gió, nước, lửa mất quân bình;
Bệnh tật là do duyên của tứ đại thân thể, thức ăn, khí hậu, nghiệp và tâm lý;
Sức khỏe là do duyên của hành thiện, tiết độ, tâm an.
Tất cả đều là duyên sinh – (paṭiccasamuppāda), nghĩa là:
“Cái này có nên cái kia có; cái này diệt nên cái kia diệt.”
Không có một “người” tạo, cũng không có một “người” chịu.
Chỉ có pháp này duyên pháp kia như những làn sóng nối tiếp trên mặt nước.
“Không ai tạo, không ai chịu” - tuệ thấy vô ngã
Khi tâm thiền giả trong thiền trở nên sáng và tĩnh, họ thấy rằng:
Ý nghĩ khởi lên cũng chỉ là một pháp tâm,
Cảm thọ là một pháp thọ,
Thân này là sự kết hợp tạm của đất, nước, gió, lửa,
và mọi thứ vận hành theo quy luật riêng của nó.
Khi đau ốm hay gặp tai họa, người thấy pháp chỉ nhận biết:
“Đây là khổ đang sinh, đây là nhân đang vận hành.”
Không còn “tôi đang khổ” hay “tôi bị hại”.
Chính ở đây, tâm trở nên tự do, vì đã thấy rõ không có chủ thể thật, chỉ là dòng pháp tiếp nối.
“Chỉ là dòng nhân quả vận hành vô ngã” - sự an tịnh của trí tuệ.
Thấy được điều này, thiền giả không còn sợ hãi những biến động như:
động đất, bệnh tật, lửa cháy, hay cả cái chết.
BỞI HỌ BIẾT RẰNG:
Thân này sinh rồi diệt;
Các pháp hữu vi vốn vô thường;
Tất cả chỉ là nhân quả tiếp nối, như dòng sông không có điểm khởi đầu hay kết thúc.
Trí tuệ ấy không làm cho con người lạnh lùng hay thờ ơ, mà trái lại - làm khởi lên lòng từ bi sâu thẳm, bởi thấy rõ rằng mọi chúng sinh đang chịu khổ vì chấp có “ta” trong dòng pháp vô ngã ấy.
Tóm lại
TỤC ĐẾ
Có người tạo, có người chịu, có thiện ác, có nhân quả rõ ràng,
Giúp ta sống có trách nhiệm, hành thiện, tránh ác.
CHÂN ĐẾ
Không ai tạo, không ai chịu; chỉ có pháp duyên khởi, vô ngã,
Giúp tâm buông xả, hết sợ hãi, an trú trong trí tuệ và từ bi.
Nếu “tục đế” giúp ta hiểu rõ trách nhiệm nhân quả, “chân đế” mở ra trí tuệ vô ngã, thì “mặt tu tập” là nơi hai cái thấy ấy gặp nhau trong đời sống hằng ngày, trở thành sự sống tỉnh thức, từ bi, và an nhiên giữa vô thường.
ĐI SÂU VÀO BA KHÍA CẠNH NÀY:
“Không oán” - buông gánh trách móc, khởi tâm hiểu và thương
Khi thấy rõ mọi sự đều do nhân duyên,
ta không còn oán trời, trách người, hay tự trách mình.
Người làm tổn thương ta cũng đang bị nghiệp và vô minh chi phối;
Những mất mát hay nghịch cảnh chỉ là duyên quả đang chín;
Chính oán hận mới nối dài khổ đau, còn hiểu biết và tha thứ mới chấm dứt khổ đau.
TRONG THIỀN QUÁN, KHI MỘT CẢM XÚC KHỞI LÊN, TA CHỈ NHÌN:
“Đây là tâm sân đang sinh, không phải ‘tôi giận’.”
Như vậy, sân hận tan mà từ bi tự nhiên hiện ra.
“Không sợ” - vì đã thấy rõ quy luật và bản chất vô ngã.
KHI HIỂU NHÂN QUẢ VÀ VÔ THƯỜNG, TA BIẾT RẰNG:
Thân này sẽ bệnh, sẽ già, sẽ tan hoại - đó là tự nhiên;
Mọi biến động đều là pháp vận hành, không có “ai” bị hại;
Sợ hãi chỉ sinh khi ta chấp rằng “ta” là thật, “cái này” là của ta.
THIỀN GIẢ, KHI ĐỐI DIỆN ĐỘNG ĐẤT, BỆNH TẬT HAY CÁI CHẾT, CHỈ THẤY:
“Đây là pháp sinh - pháp diệt. Biết vậy, an trú trong cái biết.”
Nỗi sợ tan, thay vào đó là tâm định và sáng biết,
giống như ngọn đèn vẫn cháy yên giữa cơn gió - vì gió cũng chỉ là gió.
“KHÔNG TRỐN TRÁNH” - SỐNG GIỮA ĐỜI MÀ KHÔNG BỊ ĐỜI CUỐN ĐI
Không oán, không sợ không có nghĩa là thờ ơ hay yếm thế, mà là sống giữa cuộc đời, nhưng không bị dính mắc vào nó.
Khi có khổ, biết đây là khổ, và dùng chánh niệm để soi sáng khổ ấy.
Khi có vui, biết đây là vui, và giữ tâm không đắm nhiễm.
TỪ ĐÓ, THIỀN GIẢ CÓ THỂ:
Sống tỉnh thức: nhận biết từng hơi thở, từng cảm thọ, từng bước chân.
Sống từ bi: biết rằng mọi chúng sinh đều trong vòng nhân quả vô tận, ai cũng mong hạnh phúc, nên khởi tâm thương và giúp đỡ.
Gieo nhân lành: mỗi lời nói, mỗi hành động đều là hạt giống gieo vào dòng nhân quả - ta chọn gieo thiện, dù chỉ là một nụ cười an tịnh hay một ý niệm lành.
TÂM TU TẬP TRỌN VẸN
“Hiểu nhân quả để không oán,
Thấy vô ngã để không sợ,
Sống tỉnh thức để không trốn tránh.”
Ba điều ấy hòa lại thành con đường Trung đạo, nơi trí tuệ và từ bi đi song hành - trí tuệ giúp thấy rõ pháp, từ bi giúp ôm trọn pháp.