Tôn Giả Āciṇṇa, Dhammācariya – Pháp Sư
Aggamahākammaṭṭhānācariya – Đệ Nhất Đại Thiền Sư
Trưởng Ban Thiền Sư và Cố Vấn Thiền
Trung Tâm Rừng Thiền Phật Học Quốc Tế Pa-Auk, Myanmar
- Câu Hỏi 173: Kinh nói rằng Đức Phật thường thường thuyết
Pháp (Dhamma) bắt đầu với việc nói về bố thí, giữ giới, và hạnh phúc cõi trời.
Rồi Ngài quan sát căn cơ của người nghe và dạy những bất lợi của tham dục cũng
như các Pháp cao quý của chư Phật — khổ, nguồn gốc (của khổ), sự diệt (của khổ)
và con đường (dẫn đến sự diệt khổ). Xin Sayadaw vui lòng nói cho cúng con biết
bố thí, cúng dường được quả lớn như thế nào và giữ giới ngăn được cái khổ thiêu
đốt trong địa ngục và hưởng được những lợi ích lớn ra sao. Thế nào là Thuyết về
Cõi Trời? Thế nào là những bất lợi của dục tham đối với các dục lạc?
Trả Lời Câu Hỏi 173: Loại thuyết pháp này gọi là Anupubbi-kathā,
tức hướng dẫn theo tuần tự. Đức Phật dạy theo cách tuần tự này chỉ khi cần. Đối
với các vị Tỳ-kheo đã có giới và định trong sạch, Đức Phật chỉ dạy Vipassanā.
Nhóm năm vị Tỳ-kheo (Kiều-trần-như) là ví dụ. Sau khi các vị đã đắc đạo quả Nhập
lưu, Đức Phật dạy cho các vị Kinh Vô-Ngã -Tướng, tức là chỉ dạy Vipassanā hay
minh sát, chứ không dạy giới và định nữa. Đối với những vị Tỳ-kheo đã có giới
trong sạch nhưng không đủ định, Đức Phật bắt đầu bài giảng của Ngài với việc thực
hành định. Kinh Tiểu Không (Cūḷa Suññata Sutta) là một ví dụ. Đức Phật dạy tám
thiền chứng hiệp thế và Diệt Tận Định
(nirodhasamāpatti) trong bài kinh đó. Đối với những người giới vẫn chưa thanh tịnh,
Đức Phật bắt đầu bài giảng của Ngài với giới, giống như Kinh Ākaṇkheya. Đối với
những người cần nghe những lời dạy về bố thí, giữ giới, v.v..., đặc biệt đối với
người tại gia, Đức Phật đưa ra một sự hướng dẫn theo tuần tự, anupubbi-kathā.
Còn về cách để có được những quả lớn từ việc cúng dường hay
bố thí, Kinh Phân Biệt Cúng Dường (Dakkhiṅāvibhaṇga Sutta) cung cấp cho chúng
ta nhiều hướng dẫn cụ thể. Trong bài Kinh đó, Đức Phật liệt kê mười bốn loại
cúng dường cá nhân (cá nhân thí), từ cúng dường được làm đến một vị Phật xuống
đến bố thí cho một phàm nhân không giới đức và thậm chí đến một con vật. Mỗi loại
bố thí đều có những lợi ích của nó, nhưng sự hoàn thiện (giới đức) của người thọ
nhận càng cao thì những lợi ích do việc cúng dường tạo ra càng lớn. Và rồi ngay
cả đối với những cúng dường hay bố thí được làm đến cùng một loại người thọ nhận,
lợi ích của chúng vẫn khác nhau tùy thuộc vào tác ý của người bố thí: chẳng hạn,
khi người ta thực hiện việc cúng dường với tâm thanh tịnh, tức là, không mong đợi
bất cứ điều gì đáp trả, họ gặt những lợi ích lớn hơn một người với tâm bất tịnh,
mong đợi một phần thưởng nào đó.
Cúng dường được thanh tịnh nhờ giới thanh tịnh của người
cúng dường, hoặc giới thanh tịnh của người thọ nhận, hoặc giới thanh tịnh của cả
hai. Cúng dường thanh tịnh đem lại những lợi ích cao thượng. Do đó, để có được
những kết quả lớn và cao thượng từ việc cúng dường hành giả phải hội đủ năm yếu
tố:
1. Là người có giới;
2. Vật cúng dường
có được một cách chính đáng (hợp lẽ đạo);
3. Tâm gột sạch
những cấu uế (không mong đợi phần thưởng);
4. Có niềm tin đủ
mạnh nơi nghiệp và quả của nghiệp;
5. Người thọ nhận
là người có giới đức.
Cúng dường có đủ năm yếu tố này sẽ tạo ra những quả lơi ích
lớn. Tuy nhiên, Đức Phật hoàn toàn không tán dương loại cúng dường này, bởi vì
nó vẫn đem lại sự tái sinh trong một sanh hữu nào đó. Bao lâu còn có tái sanh,
chắc chắn sẽ vẫn còn sanh, già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu và não. Đức Phật
khen ngợi một loại cúng dường khác.Ngài dạy trong Kinh Phân Biệt Cúng Dường như
vầy:
‘Này các Tỳ-kheo, Ta nói rằng khi một vị A-la-hán, với tâm
trong sạch và không cấu uế, đặt niềm tin nơi quả lớn của nghiệp, cúng dường đến
một vị A-la-hán những gì có được một cách chân chánh, thời cúng dường ấy quả thực
là cúng dường tối thượng nhất trong tất cả những cúng dường của thế gian.’
Chúng ta thấy trong trường hợp này có đủ năm yếu tố:
1. Người cúng dường
là một bậc A-la-hán,
2. Vật cúng dừng
có được một cách chân chánh,
3. Vị ấy có một
cái tâm trong sạch và vô uế,
4. Vị ấy có niềm
tin đủ mạnh nơi Luật Nhân Quả (Nghiệp và quả của nghiệp),
5. Người thọ nhận
cũng là một bậc A-la-hán.
Loại cúng dường này sẽ không tạo ra bất kỳ sự tái sanh nào
trong tương lai. Do đó sẽ không còn sanh, già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu và
não. Đó là lý do vì sao Đức Phật khen ngợi loại cúng dường này là cao thượng nhất.
Nhưng nếu người cúng dường không phải là bậc A-la-hán, vậy
làm thế nào họ có thể thực hiện được loại cúng dường này? Trong Kinh Nandamātā
(mẹ của Nanda), Đức Phật dạy rằng có hai cách để người ấy làm được điều này:
Khi cả hai — người cúng dường và người thọ nhận — đều không có tham, sân, si,
hay khi họ đang cố gắng để diệt tham, sân, si. Chúng ta có thể nói rằng cúng dường
đó cũng hết sức cao thượng. Trong trường hợp này thí chủ vào lúc cúng dường thực
hành Vipassanā, đó là, người ấy quán tính chất vô thường, khổ và vô ngã của
danh-sắc của mình, danh-sắc của người thọ nhận và sắc chân đế (Paramattha rūpa)
của những vật cúng dường. Người ấy cũng phải quán những tâm hành thiện trước,
trong và sau khi cúng dường như vô thường, khổ và vô ngã. Loại cúng dường này
thường sẽ không tạo ra bất kỳ sự tái sanh nào trong tương lai. Để thoát khỏi
vòng tái sanh luân hồi, qúy vị được khuyên nên thực hiện loại cúng dường này.
Còn về giữ giới, nếu quý vị là một vị Tỳ-kheo, quý vị nên cố
gắng để giữ các giới Ba-la-đề-mộc-xoa (Pāṭimokkha). Nếu quý vị là một người tại
gia, quý vị nên giữ ít nhất là ngũ giới và giữ trong sạch trong suốt cuộc đời
mình vẫn tốt hơn. Thỉnh thoảng phạm giới là điều không tốt. Nếu một người tại
gia có cơ hội quý vị nên cố gắng giữ bát giới (bát quan trai giới) hoặc cửu phần
bát quan giới (Navanga uposatha). Cửu phần bát quan giới có nghĩa là khi quý vị
giữ bát quan qúy vị cũng thực hành thêm thiền tâm từ nữa. Điều này được đề cập
trong Navaka-Nipata của Tăng Chi Bộ Kinh. Giữ những giới này có thể ngăn được
cái khổ thiêu đốt trong địa ngục. Khi những giới này được hỗ trợ bởi định, như
tám thiền chứng, và các minh sát trí, chúng trở nên cao thượng hơn và mạnh mẽ
hơn giúp người ta không phải rơi vào bốn ác đạo. Nếu người ta đắc giới của Bậc
Thánh (Ariyakantasīla), có nghĩa là khi người ta trở thành một Bậc Thánh, họ chắc
chắn không còn phải đi vào địa ngục nữa.
Thuyết về Cõi Trời (Sagga-kathā) nghĩa là thuyết về hạnh
phúc trong thiên giới. Chúng ta không thể đo lường được hạnh phúc trong thiên
giới. Nếu quý vị muốn biết hạnh phúc cõi trời ra sao quý vị nên cố gắng để lên
trên đó. Chẳng hạn, những tòa lâu đài của họ rất là kỳ diệu, làm bằng vàng, bạc
và các châu báu khác, v.v...hợp theo nghiệp đời trước của họ. Một số tòa thiên
cung của họ lớn đến nỗi mà kích thước của chúng chiều dài cũng như rộng dài cả
ba do-tuần; một số thậm chí lên đến bốn mươi do tuần. (một do tuần — yojana khoảng
mười một ki-lô-mét)
Đức Phật dạy những bất lợi của tham thú dục lạc theo nhiều
cách. Trong Kinh Potaliya của Trung Bộ Kinh, Ngài dùng những ví dụ khác nhau
như: Một con chó không thể dứt được cơn đói và sự yếu ớt của nó bằng cách gặm một
khúc xương khô. Các dục lạc được so sánh với khúc xương ấy. Một con chim kên
kên vồ được một miếng thịt và bay lên sẽ bị những con kên kên khác cắn mổ và cấu
xé cho đến chết hoặc bị khổ đến chết do miếng thịt đó như thế nào thì các dục lạc
cũng thế. Một người cầm bó đuốc cỏ khô
đi ngược chiều gió sẽ bị nó đốt cháy đến chết hoặc bị khổ như chết. Các dục lạc
được so sánh với cây đuốc cỏ khô ấy. Một người rơi vào hố than đang cháy sẽ bị
chết hoặc khổ như chết. Các dục lạc được so sánh với hố than đang cháy ấy. Một
người nằm mộng thấy những vườn cây khả ái sẽ không thấy gì khi thức dậy. Các dục
lạc được so sánh với cơn mộng. Một người mượn của cải của người khác sẽ trở nên
thất vọng khi chủ nhân của nó lấy lại những của cải của họ. Các dục lạc được so
sánh với của cải vay mượn. Một người trèo lên cây kiếm trái sẽ bị chết hoặc khổ
như chết khi cây bị người khác chặt đổ xuống. Các dục lạc được so sánh với cây
ăn trái đó. Như vậy các dục lạc đem lại nhiều khổ đau và ưu não, trong khi sự
nguy hiểm trong chúng còn lớn hơn. Đây là những nguy hiểm của dục lạc và những
bất lợi của lòng tham đối với chúng.
Trong Kinh Magandiya (Magandiya Sutta) của Trung Bộ. Đức Phật
đã dùng một hình ảnh như vầy:
Ví như, này Magandiya, một người bị bệnh cùi với những vết lở
lói và phồng giộp trên tay chân, bị trùng bọ đục khoét, đang cào bung vẩy miệng
của những vết thương với móng tay của mình, hơ đốt thân mình trên hố than cháy
đỏ; càng cào bung vẩy và càng hơ đốt thân mình, miệng các vết thương của người ấy
càng trở nên dơ bẩn; hôi thối và bị nhiễm trùng thêm, tuy thế người ấy vẫn sẽ
tìm được một mức độ thoả mãn và thích thú nào đó trong việc cào miệng các vết
thương của mình. Cũng vậy, này Magandiya, các chúng sinh chưa thoát khỏi dục
tham đối với các dục lạc, đang bị nhai nghiến bởi khát khao các dục lạc, đang bị
thiêu đốt với cơn sốt của các dục lạc; càng đắm chìm trong các dục lạc, khát ái
đối với dục lạc của họ càng tăng và càng bị cơn sốt dục thiêu đốt thêm, tuy thế
họ vẫn tìm thấy một mức độ thoả mãn và thích thú nào đó do duyên ngũ dục.
Còn trong Kinh Āditta-pariyāya của Tương Ưng Bộ Đức Phật nói
về sự nguy hiểm chấp thủ tướng của các đối tượng giác quan như vầy:
“Này các Tỳ-kheo, thà để cho nhãn căn bị huỷ hoại bởi một
cây kim bằng sắt nung cháy đỏ, cháy hừng, cháy lửa ngọn, hơn là chấp thủ tướng
riêng, tướng chung đối với các sắc do mắt nhận thức. Vì nếu thức bị trói buộc
vào vị ngọt trong tướng chung hay vị ngọt trong tướng riêng, và vào lúc ấy nếu
người đó mệnh chung, có thể người đó sẽ đi đến một trong hai sanh thú: cõi địa
ngục hay cõi súc sanh. Do thấy sự nguy hiểm này, Ta nói như vậy.”
Theo cách tương tự Đức Phật đã giải thích sự nguy hiểm đối với
việc chấp thủ tướng của một âm thanh, tướng của một mùi, tướng của một vị, v.v…
Lý do một người chấp thủ như vậy bị tái sanh vào cảnh giới địa ngục hay cảnh giới
súc sanh là vì tốc hành tâm cận tử (maraṇasanna-javana), tốc hành tâm cuối cùng
trong một kiếp sống sẽ quyết định kiếp kế của họ. Nếu một tốc hành tâm cận tử bất
thiện khởi lên, do tham ái hay bất kỳ một phiền não nào khác, người ta sẽ đi đến
một trong bốn cõi khổ sau khi chết. Chẳng hạn, năm trăm tiên nữ của Thiên Tử
Subrahma đă chết trong khi đang thọ hưởng các dục lạc nơi cõ trời và liền tái
sanh vào cõi địa ngục.