VIỆC HAY PHÀN NÀN (complaining)
Được xem là một biểu hiện của bất mãn và không chấp nhận thực tại - và đây chính là mảnh đất màu mỡ để phiền não (kilesa) sinh sôi.
CƠ CHẾ CỦA NÓ CÓ THỂ HIỂU NHƯ SAU:
Phàn nàn = duy trì sự chống đối.
Khi tâm cứ lập đi lập lại một ý niệm rằng “việc này sai, người này không đúng, hoàn cảnh này tệ…”, thì năng lượng chú ý bị trói chặt vào điều không vừa ý. Mỗi lần lập lại là mỗi lần nuôi dưỡng sự khó chịu, bực bội, sân hận hoặc sầu muộn.
Phàn nàn tạo thói quen cho tâm.
Tâm sẽ dễ dàng tìm thêm “bằng chứng” để củng cố sự bất mãn. Cái gì cũng thấy không ổn. Dần dần, thay vì nhìn thấy mặt tích cực, tâm chỉ chuyên soi vào điều khiến mình khó chịu. Đây là cách phiền não trở thành phản xạ.
Không thấy vô thường, vô ngã.
Người hay phàn nàn thường quên mất rằng mọi sự đều vô thường và không ai có thể kiểm soát trọn vẹn hoàn cảnh. Khi không chấp nhận quy luật này, tâm bị kẹt trong mong muốn thay đổi thế giới theo ý mình, dẫn đến thất vọng liên miên.
Cắt vòng lập bằng chánh niệm.
Trong thiền tập, khi nhận ra tâm đang phàn nàn, chỉ cần biết: “Đây là tâm bất mãn, đây là tâm sân, đây là tâm so sánh” - mà không cần đồng hóa hay chống lại nó. Từ từ, thói quen than phiền sẽ yếu dần vì không còn được “cho ăn” bằng sự chú ý vô minh.
TRONG KINH TĂNG CHI BỘ (AN 5.162), ĐỨC PHẬT CÓ DẠY RẰNG:
“Người không hoan hỷ với những gì đang có, không biết ơn những gì mình được, thì dù ở đâu, lúc nào cũng thấy không đủ, không vui.”
Câu này chính là một tinh túy trong lời dạy của Đức Phật về tri túc (santutthi) và biết ơn (kataññutā).
NẾU TÁCH Ý RA, THÌ CÓ THỂ HIỂU NHƯ SAU:
“KHÔNG HOAN HỶ VỚI NHỮNG GÌ ĐANG CÓ”
Tâm luôn hướng ra ngoài, mong cầu thêm, so sánh với người khác. Khi tâm như vậy, thì cái mình có hôm nay liền trở thành “không đủ”, dù thực tế nó vốn đã đủ cho sự sống.
“KHÔNG BIẾT ƠN NHỮNG GÌ MÌNH CÓ”
Quên mất rằng thân này, hơi thở này, hoàn cảnh này là kết quả của vô số nhân duyên, sự giúp đỡ, và thậm chí cả những điều mình từng mong muốn nay đã thành hiện thực. Không biết ơn thì niềm vui bị che mờ, giống như ăn một món ngon nhưng mải nhìn sang bàn bên.
“DÙ Ở ĐÂU, LÚC NÀO CŨNG THẤY KHÔNG ĐỦ, KHÔNG VUI”
Khi tâm quen nhìn vào “thiếu”, thì dù cho hoàn cảnh có thay đổi, niềm bất mãn vẫn đi theo. Ngược lại, nếu tâm biết ơn và tri túc, thì ngay cả trong nghịch cảnh cũng có thể tìm thấy sự nhẹ nhõm, bình an.
Tri túc không có nghĩa là chấp nhận mọi thứ trong sự cam chịu, mà là một nền tảng của tâm tự do, không bị lôi kéo bởi lòng tham hay sự so đo.
“Tri túc” trong Phật giáo không phải là thái độ buông xuôi hay chịu đựng mọi thứ một cách thụ động, mà là trạng thái tâm thấy đủ, thấy vừa vặn với những gì đang có - từ đó mới hành động sáng suốt.
ĐIỂM TINH TẾ Ở ĐÂY LÀ:
Cam chịu: tâm bị ép chấp nhận, trong lòng vẫn còn bất mãn, dằn vặt, mong có ngày thay đổi. Đây là trạng thái bị trói buộc, chưa có tự do nội tâm.
Tri túc: tâm tự thấy rằng những gì đang có cũng đủ để sống an lạc, nên không bị áp lực chạy theo tham muốn vô tận. Từ sự an tịnh này, nếu cần thay đổi hay cải thiện điều gì, mình làm trong sáng, không bị thôi thúc bởi thiếu thốn giả tạo.
TRI TÚC GIÚP TA THOÁT KHỎI LẬP ĐI LẬP LẠI “CHƯA ĐỦ” - CÁI VÒNG MÀ NGƯỜI HAY PHÀN NÀN RẤT DỄ MẮC KẸT:
CÓ ĐƯỢC → THẤY CHƯA ĐỦ → MUỐN THÊM → VỪA CÓ THÊM LẠI THẤY THIẾU → PHÀN NÀN → MỆT MỎI → LẬP LẠI.
Người có tri túc thì dù hoàn cảnh đơn sơ vẫn cảm nhận đủ đầy, và nếu có thêm điều tốt đẹp thì đó chỉ là duyên lành phụ, không phải điều kiện bắt buộc để an lạc.
Lại là một tinh thần rất chuẩn xác của giáo lý Đức Phật.
Nó chạm đúng cốt lõi của một đời sống vững chãi bên trong, nhẹ nhàng bên ngoài.
TRONG KINH PHÁP CÚ, KỆ 204, ĐỨC PHẬT DẠY:
“Tri túc là tài sản lớn nhất,
Biết sống đủ là giàu sang nhất.”
Nghĩa là:
Người tri túc không để hạnh phúc của mình bị đặt cược vào “cái gì thêm nữa” ở tương lai.
Nếu nhân duyên mang đến điều tốt đẹp mới, họ vẫn đón nhận, nhưng không lệ thuộc.
Nhờ vậy, tâm luôn tự do và khó bị lay động trước thăng trầm.
Trong thiền quán, trạng thái này thường được cảm nhận như một niềm mãn nguyện lặng lẽ: không ồn ào, không bùng nổ, nhưng lan tỏa và bền bỉ. Nó không giống niềm vui kích thích từ bên ngoài, mà là sự đầy đủ không nguyên nhân, là cách diễn tả rất gần với trạng thái hỷ (pīti) và lạc (sukha) trong thiền, nhưng ở mức không còn lệ thuộc vào điều kiện bên ngoài.
KHI TÂM AN TRÚ TRONG TRI TÚC VÀ CHÁNH NIỆM:
Niềm vui không còn đến từ có thêm hay mất đi điều gì.
Không cần một lý do cụ thể, một sự kiện mới, hay một đối tượng mới để khơi gợi.
Nó giống như nguồn nước ngầm: dù bên ngoài là nắng gắt hay bão tố, bên trong vẫn mát lành, tràn đầy.
Người đạt được trạng thái này thường không còn bị cuốn vào việc so đo “cái này hơn cái kia”, “ngày mai sẽ thế nào”.
Niềm an lạc trở thành tự nhiên như hơi thở - không phải tìm kiếm, chỉ cần nhận ra nó vẫn luôn có mặt.
Khi tâm đã an trú, niềm an lạc giống như hơi thở: không cần tạo ra, không cần giữ chặt, chỉ cần nhận ra và để nó tự vận hành.
ĐIỀU NÀY GẦN VỚI CÁCH ĐỨC PHẬT DẠY TRONG TỨ NIỆM XỨ VÀ 16 NIỆM HƠI THỞ:
Thiền giả không “sản xuất” hạnh phúc, mà chỉ dừng việc che mờ nó bằng tham, sân, si.
Khi lớp mây phiền não tan, bầu trời an lạc vốn sẵn có tự nhiên hiển lộ.
HƠI THỞ Ở ĐÂY TRỞ THÀNH NHỊP NHẮC NHẸ NHÀNG:
Thở vào - nhận ra sự sống đang tròn đầy.
Thở ra - buông mọi tìm kiếm.
Cái đủ này không cần lý do, không cần điều kiện.