Sunday, June 19, 2022

Suy niệm chân chánh về lý vô-thường

 



Suy niệm chân chánh về lý vô-thường còn là con đường dẫn đến mục tiêu tối hậu của người tu Phật. Ðức-Phật dạy:

 

"Này chư Tỳ-Khưu, hình thể (Sắc) này là vô-thường. Cái gì là nguyên nhân và cái gì tạo duyên cho thể xác này được cấu thành cũng vô-thường. Như vậy, có thể nào Sắc được tạo nên do những gì vô-thường, lại có thể thường còn không?"

 

"Thọ là vô-thường..., Tưởng là vô-thường..., Hành là vô-thường..., Thức là vô thường... Cái gì là nguyên nhân, cái gì tạo duyên cho Thọ, Tưởng, Hành, Thức phát sanh cũng vô-thường. Như vậy, có thể nào Thọ, Tưởng, Hành, Thức, phát sanh do những gì vô-thường tạo duyên, lại có thể thường còn không?"

 

"Nhận thức như thế, này chư Tỳ-Khưu, bậc đệ tử cao quý đã được giảng giải đầy đủ không luyến ái sắc, không luyến ái Thọ, ... Thức. Vì đã chấm dứt mọi luyến ái, vị này có tâm buông bỏ, không dám níu vào chính mình. Vì buông bỏ, vị này được giải thoát và trong khi giải thoát vị này biết là mình đã giải thoát và thấu hiểu: mọi tái sanh đã chấm dứt, đời sống phạm hạnh đã được viên mãn, những gì cần phải làm đã được hoàn thành, không còn trở lại trạng thái này hay trạng thái kia nữa". (Samyutta Nikāya, Tạp A Hàm, Phẩm Khandha Vagga, WII, 18)

 

Và cũng trong Uẩn Phẩm này (Khandha Vagga), bài kinh 102 ghi như sau:

 

"Nhờ nhận thức được lý vô-thường mà nhiều vị Tỳ-Khưu phát triển và thường xuyên thực hành, chấm dứt mọi ái dục đeo níu theo Dục-Giới, chấm dứt mọi ái dục đeo níu theo Sắc-Giới và chấm dứt mọi ái dục đeo níu theo Vô-Sắc-Giới, chấm dứt mọi si mê, chấm dứt và tiêu trừ mọi ngã-mạn chấp rằng "đây là Ta".

 

"Cũng như vào mùa thu, người nông dân cày sâu cuốc bẩm, cắt tận gốc rễ để tiêu diệt cỏ dại, cùng thế ấy, này chư Tỳ-Khưu, nhận thức lý vô-thường, phát triển và thường xuyên thực hành, sẽ chấm dứt ái dục ..., chấm dứt và tiêu trừ mọi si mê, chấm dứt và tiêu trừ mọi ngã-mạn chấp rằng "đây là Ta".

 

Trong hai bài kinh trên Ðức-Phật dạy rằng vì không ý thức được thực tướng của vạn hữu là vô-thường nên con người mê muội chấp thể xác này, cùng với những cảm giác, tri giác, sinh hoạt tâm linh và những tư-tưởng là chính mình. Vì bị màn vô-minh che lấp mà chúng ta khư khư tự đồng hóa với ngũ-uẩn, chấp rằng ngu-uẩn là ta, ta là ngũ-uẩn. Vì bị si mê bao phủ như lớp mây mù dầy đặt mà ta thấy hư tưởng thực, thấy giả tạo cho là vững bền, thấy tạm bợ nhất thời ngỡ là trường tồn vĩnh cửu. Vì lẽ ấy, chúng ta cố chấp đây là "Ta", cái này là "của Ta". Do đó:

 

"Khi cái được gọi là "Ta" duyên vào vật ưa thích, tất có sự triều mến. Khi cái "Ta" bất mãn với vật không ưa thích, tất có ghét bỏ, giận dũi hay thù hận. Khi cái "Ta" thất bại, tất có sự đau khổ, âu sầu, phiền muộn, hối hận và tuyệt vọng sâu xa, có thể đưa đến quyên sinh hay gây án mạng cho người khác. Khi cái "Ta" lâm nạn, tất có sợ sệt. Khi cái "Ta" bị giới hạn trong ích kỷ hẹp hòi, tất có chia rẽ, ganh tỵ, thèm muốn, tham vọng. Khi cái "Ta" được thổi phồng, tự cao, tự đại, tất có ngã-mạn kiêu căng".

 

Cũng trong bài kinh trên, đoạn "Vị Tỳ-Khưu phát triển" có nghĩa là phát triển công trình hành thiền và đoạn "thường xuyên thực hành" là kiên trì thực hành pháp Tứ-Niệm-Xứ.

 

Người chuyên cần niệm thân, niệm thọ, niệm tâm và niệm pháp sẽ thấu đạt thực chất của cái được gọi là "Ta" tức Thân, Thọ, Tâm và thế-gian rộng lớn bao quanh cái "Ta" tức Pháp. Người ấy sẽ thấy rằng không thể nói đến bất luận cái gì trên thế-gian này rằng cái này "tồn tại", bởi vì chính trong khi nói nó tồn tại thì nó đã đổi thay, đã trở thành một cái gì khác. Người suy niệm như thế sẽ nhận thức rằng tất cả sự vật trên thế-gian huyền ảo và tạm bợ nhất thời này tựa hồ như: "Giọt sương buổi sáng, lóng lánh trên đầu, ngọn cỏ và sớm tan biến khi những tia nắng bình minh bắt đầu rọi xuống, như bong bóng nước, như cái lằn gạch trên mặt nước, như hột cải để trên đầu mũi kim, như cái chớp trong đêm tối, như một khối bọt, như ảo cảnh, như giấc mơ ..."

 

Lúc bấy giờ hành giả đã phá chấp, không còn chấp vào cái "Ngã" nữa, đã vượt ra khỏi nó, không luyến ái, không Phật lòng, không tham cũng không sân, mà phổ cập hòa đồng với toàn thể, từ-bi vô-lượng, hỷ xả vô-biên. Lúc bấy giờ hành giả đã thoát ra khỏi mọi hình thức ái dục, dầu ái dục đeo níu theo Dục-Giới, Sắc-Giới hay Vô-Sắc-Giới, tiến đến những Ðạo và Quả của các tầng Thánh và cuối cùng đến sự giải thoát toàn vẹn ra khỏi mọi khổ đau, khỏi vòng luân hồi, không còn tái sanh trở lại nữa.

 

Vô-thường là thực tướng của tất cả các pháp hữu-vi, là bản chất của vạn pháp và như thế dính liền với mọi kiếp sinh tồn.

 

Nếu không có vô-thường ắt không có cải tiến. Nhưng nếu để định luật vô-thường biến đổi mình từ tốt ra xấu, từ trong sạch đến nhiễm ô, từ sáng suốt đến mê lầm thì rõ thật là tệ hại vô cùng.

 

Giáo-pháp dạy ta tinh tấn, kiên trì tinh tấn, tận lực tinh tấn, không ngừng nỗ lực lợi dụng bản chất vô-thường để gội rửa bợn nhơ trong tâm, làm cho nó trở nên thanh khiết, để chuyển lần từ ác đến thiện, từ bóng tối của vô-minh đến Ánh Sáng Chân-lý, từ mê lầm đến giác ngộ. Giáo-pháp dạy ta hãy chăm chú chân-chánh và thường xuyên suy niệm về bản chất không ngừng đổi thay của vạn hữu.

 

Ðó là cái chìa khóa sẽ giúp ta mở tung cánh cửa trần gian để thoát ra khỏi vòng quanh lẩn quẩn của mọi kiếp sinh tồn và vinh quang rực-rỡ vượt đến Châu Toàn, Tịch Tịnh Trường Cửu - Niết-Bàn.


Trích từ: Ba đặc tướng của đời sống

Phạm Kim Khánh

Sunday, April 17, 2022

HỒI HƯỚNG VÀ CHIA PHƯỚC.


 



THERAVĀDA - PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

 

HỒI HƯỚNG VÀ CHIA PHƯỚC.

 

1.        Samantā cakkavāḷesu, atrāgacchantu devatā; Saddhammaṃ munirājassa,

suṇantu saggamokkhadaṃ.

 

2. Dhammassavanakālo ayam bhadantā. (3 lần)

 

3. Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa (3 lần)

 

1. Này hỡi các Thiên giả từ trong những thiên hà, xin hãy đến nơi đây và lắng nghe Diệu Pháp; pháp thiên lạc, giải thoát của Hiền Vương Thích Ca.

 

2. Này hỡi chư hiền giả, Giờ này xin nghe Pháp.

 

3. Xin thành kính lễ Ngài Thế Tôn, 

A-La-Hán, Đấng Toàn Tri Diệu Giác.

 

Idaṃ no ñātīnaṃ hotu sukhitā hontu ñātayo. (3 lần)

 

Idaṃ vata me puñnñaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu ānagate.

 

Do sự phước báu mà chúng con đã trong sạch làm đây. Xin hồi hướng đến thân bằng quyến thuộc đã quá vãng, cầu mong cho các vị ấy hằng được sự yên vui.

 

Do sự phước báu mà chúng con đã trong sạch làm đây, hãy là pháp duyên lành, để dứt khỏi những điều ô nhiễm, ngủ ngầm nơi tâm trong ngày vị lai.

 

Imāya dhammānudhammapaṭipattiyā Buddhaṃ pūjemi.

 

Imāya dhammānudhammapaṭipattiyā Dhammaṃ pūjemi.

 

Imāya dhammānudhammapaṭipattiyā Saṃghaṃ pūjemi.

 

Addhā imāya paṭipattiyā

jāti-jarā-byādhi-maraṇamhā parimuccissāmi.

 

Idaṃ me puññaṃ āsavakkhayā’vahaṃ hotu ānagate.

 

Idaṃ me puññaṃ nibbānassa paccayo hotu.

 

Mama puññabhāgaṃ sabbasattānaṃ bhājemi;

 

Te sabbe me samaṃ puññabhāgaṃ labhantu.

 

Với sự hành Pháp tuần tự này,

con xin cúng dường Phật.

Với sự hành Pháp tuần tự này,

con xin cúng dường Pháp.

Với sự hành Pháp tuần tự này,

con xin cúng dường Tăng.

Nhất định, nhờ sự hành Pháp tuần tự này,

con sẽ thoát khỏi sanh-già-bệnh-chết

Phước lành này của con,

nguyện đoạn trừ các lậu hoặc - trầm luân.

Phước lành này của con,

nguyện là duyên thành tựu được Niết bàn.

Phần phước của con,

xin chia đều đến tất cả sanh linh.

Mong tất cả hãy thọ nhận phần phước ấy được đều nhau.

 

Bhavatu sabbamaṅgalaṃ, 

rakkhantu sabbadevatā;

Sabba-Buddhānubhavena

sadā sukhī bhavantu te.

 

Bhavatu sabbamaṅgalaṃ, 

rakkhantu sabbadevatā;

Sabba-Dhammānubhavena

sadā sukhī bhavantu te.

 

Bhavatu sabbamaṅgalaṃ, 

rakkhantu sabbadevatā;

Sabba-Saṃghānubhavena

sadā sukhī bhavantu te.

 

Nguyện người trọn hạnh phúc, và chư thiên che chở

Nhờ tất cả Uy Phật, mong người hằng an lành.

Nguyện người trọn hạnh phúc, và chư thiên che chở

Nhờ tất cả Uy Pháp, mong người hằng an lành.

Nguyện người trọn hạnh phúc và chư thiên che chở

Nhờ tất cả Uy Tăng, mong người hằng an lành.

 

(Sādhu! Sādhu! Lành thay!)

 



 

Sunday, April 10, 2022

MAHĀDHAMMIKA

 

MAHĀDHAMMIKA

Sau khi chư Tỳ khưu đến bên cạnh bên giường của cận sự nam Mahādhammika, ông ta đã cung thỉnh chư Tỳ khưu ấy thuyết giảng, đọc tụng về Kinh tạng. Thể theo lời thỉnh cầu ấy, chư Tỳ khưu đã thuyết giảng, đọc tụng lại bài kinh Satipaṭṭhāna (Chánh niệm khắng khít, vững chắc). Đối với trí tuệ thuận theo sự thật chân lý của bậc Thánh thì bài pháp, bài kinh Satipaṭṭhāna (Chánh niệm khắng khít) là thích hợp nhất vậy.

Ông cận sự nam khi đang nghe pháp, nghe kinh Satipaṭṭhāna thì đồng thời cũng quán xét trạng thái, tính chất sinh-diệt của những điều sinh khởi lên ngay chính trên thân thể tổng hợp 5 nhóm, theo phương pháp hành trì chánh niệm khắng khít ấy. Nếu một khi sắc pháp nào sinh khởi lên thì sẽ để ý, chánh niệm nơi sắc pháp ấy rồi quán xét nguyên nhân, trạng thái sinh-diệt của sắc pháp ấy. Nếu một khi cảm thọ, cảm giác nào sinh khởi lên thì sẽ để ý, chánh niệm nơi cảm thọ, cảm giác ấy rồi quán xét nguyên nhân, trạng thái sinh-diệt của cảm thọ ấy. Nếu một khi tâm suy nghĩ sinh khởi lên, bất kể là tâm gì, có thể là tâm thiện hoặc cũng có thể tâm bất thiện, tâm nào thì tâm đều sẽ để ý, chánh niệm tâm ấy rồi quán xét nguyên nhân, trạng thái sinh-diệt của tâm ấy. Những tâm sở, thành phần còn lại của tâm, khi chúng sinh khởi lên cũng đều được quán xét với sự để ý, chánh niệm để thấy biết rõ trạng thái sinh-diệt của chúng. Ngay khi ấy, ông ta tự chính mình thấy biết rõ nguyên nhân và trạng thái sinh-diệt của những sắc (thân), thọ, tâm, pháp đanh sinh khởi ngay chính trên thân thể tổng hợp 5 nhóm (khandha) của mình.

Trong sự sinh-diệt liên tục không ngừng nghỉ ấy, khi thấy biết rõ được sự sinh là xa lìa được nhận thức hiểu sai chấp lầm chết rồi là hết (ucchedadiṭṭhi: đoạn kiến, tri kiến chết rồi là hết); khi thấy biết rõ được sự diệt là xa lìa được nhận thức hiểu sai chấp lầm kiếp này sao kiếp sau vậy (sassatadiṭṭhi: thường kiến, tri kiến loài gì chết đi sinh lại làm loài đó, không bao giờ thay đổi, người âm, cõi âm); khi thấy biết rõ được cả sự sinh lẫn sự diệt là xa lìa được nhận thức hiểu sai chấp lầm có linh hồn trong thân thể tổng hợp 5 nhóm này (sakkāyadiṭṭhi: ngũ uẩn tà kiến; tri kiến cho rằng trong thân thể tổng hợp 5 nhóm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức này có linh hồn ‘atta: cái tôi, cái ta thường hằng bất biến’). Một khi xa lìa được những nhận thức tri kiến sai lệch (diṭṭhi: tà kiến) thì sẽ thấy biết rõ sự thật không có con người, chúng sinh nào cả, chỉ là tính chất nhân quả sinh khởi liên tục không ngừng nghỉ của các pháp kết hợp tạo tác (saṅkhāra), cho nên cũng xa lìa được sự hoài nghi (vicikicchā). Sự xa lìa được nhận thức tri kiến sai lệch (diṭṭhi: tà kiến) và hoài nghi (vicikicchā) nhân quả sinh khởi liên tục này, tuy chưa phải là sự đoạn diệt tận gốc rễ nên chưa đạt đến quả vị bậc Thánh Nhập Lưu, mặc dù vậy lại đạt đến được địa vị bậc Thiện trí phàm nhân một phần giống như bậc Thánh Nhập Lưu (Cūḷasotāpanna: bậc Tiểu Nhập Lưu).

Vì vậy, ông cận sự nam Mahādhammika là người đã có năng lực làm chủ được cuộc đời của chính mình, khi có thể muốn tái sinh vào cảnh giới tốt nào y theo mong muốn của mình cũng được cả. Chính tính chất này nên đã nói như ở trên rằng “ông ta đã có được nơi tái sinh cố định”, trong các kinh sách Pāḷi gọi là “niyatagatika: người có nơi tái sinh cố định” vậy.

 

Ông cận sự nam trong khi đang nghe pháp về bài kinh Satipaṭṭhāna đã đến thời gian sắp lâm chung, giây phút cận kề cái chết càng lúc càng gần vậy. Và theo như quy luật của thời gian sắp lâm chung, lúc gần chết sẽ có 1 trong 3 hiện tượng chắc chắn sẽ là đối tượng sinh khởi trong tâm người sắp chết, đó là: nghiệp, những việc làm trước khi chết; tướng trạng của nghiệp, những cảnh tượng, vật dụng trong khi làm, tạo nghiệp; và hình ảnh cảnh giới sẽ tái sinh vào. Lúc này, đối với ông cận sự nam chính là đối tượng hình ảnh liên quan đến cảnh giới sẽ tái sinh vào, hiện rõ trong tâm; đó là có 6 cỗ xe ngựa từ 6 tầng trời làm đối tượng hiện rõ trong tâm đến đón ông ấy.

Trong khi hạng phàm nhân thiện trí với cái thấy biết rõ mới từ chánh kiến (sammādiṭṭhi), chỉ có trí tuệ là cha, chỉ có trí tuệ là mẹ, nên khi làm việc phước thiện luôn phát nguyện vì mong muốn chứng đạt sự an lạc tịch tịnh, vắng lặng của Niết-bàn, cao thượng hơn gấp bội lần sự an lạc hạnh phúc của sinh tử luân hồi vậy. Dù họ có làm bất cứ việc phước thiện nào cũng không đưa cái tôi, cái ta vào trong việc làm ấy. Khi ấy chính “nương vào vô minh để làm cho trí tuệ (minh) sinh khởi lên”, cho nên việc làm, sự kết hợp tạo tác (saṅkhāra) ấy là để đoạn diệt vô minh (avijjā) vậy. Một khi đã làm được như vậy, thì ngay khi ấy cuộc đời của họ không còn thuận theo trong dòng nhân duyên sinh khởi nữa, mà đã đi vào trong chiều ngược dòng nhân duyên sinh khởi vậy. Khi vô minh bị đoạn diệt thì tham ái dính mắc sẽ bị đoạn diệt theo; khi tham ái bị đoạn diệt thì sự bám víu chấp thủ cũng sẽ bị đoạn diệt; khi chấp thủ bị đoạn diệt thì sự tạo tác nghiệp cũng bị đoạn diệt; khi nghiệp, tạo tác đã bị đoạn diệt thì kiếp sống, cuộc đời cũng bị đoạn diệt; cuộc đời đã bị đoạn diệt thì sự tái sinh, sự sinh khởi cũng bị đoạn diệt theo vậy. Và chính khi ấy, cuộc đời của họ chỉ có việc là đang đi trên con đường cao thượng của bậc Thánh, hướng thẳng đến nơi giải thoát khỏi sinh tử luân hồi là Niết-bàn vậy.


Trích từ Dhammapada Những Pháp Dẫn Đến Niết Bàn – Sư Hộ Giới (Rakkhitasīla Bhikkhu) dịch Việt theo Dhammapada nguyên tác tiếng Myanmar của tác giả U Shwe Aung