Sunday, May 14, 2023

TỨ NIỆM XỨ.

 


TỨ NIỆM XỨ.

 

Có bốn đối tượng của Niệm: Thân, Thọ (cảm giác), Tâm (ý tưởng), và Pháp (đối tượng của ý), và đối với mỗi đối tượng ấy, ta phải hành Niệm một cách khách quan. Bất cứ là đối tượng nào của Niệm, quý vị phải nhìn chỉ đối tượng ấy mà thôi.

 

"Khi trông thấy vật gì, chỉ nên thấy vật ấy mà thôi.

Khi nghe tiếng gì, chỉ nên nghe tiếng ấy mà thôi.

Khi có một ý tưởng nào, chỉ nên nhận thức ý tưởng ấy mà thôi.

Khi có sự hiểu biết nào, chỉ nên nhận thức sự hiểu biết ấy mà thôi".

 

Khi đối tượng của Niệm là một tiếng động thì phải chỉ có tiếng động ấy mà thôi, chứ không nên có những ý nghĩ và cảm kích nào tạo ra. Khi ta nghe một việc gì cũng vậy, chỉ nên nghe việc ấy mà thôi. Ðối với ba cách Niệm kia quý vị cũng nên giữ một thái độ tinh thần như thế.

 

Giờ đây ta mới thấy sự quan trọng của lối nhìn sự vật một cách khách quan. Mỗi khi cái gì đến ta, ta không nên để nó ảnh hưởng đến ta. Ta chỉ nhìn nó một cách thật khách quan. Cái gì đến ta có thể là thấy, hoặc nghe, hoặc mùi, hoặc vị, hoặc cảm giác, hoặc một ý tưởng.

 

Khi một "đối tượng" phát sinh. Đó là những gì đến với ta trên đường đời và nếu ta nhìn những việc ấy một cách khách quan, thay vì để nó chế ngự ta, thì ta sẽ trải qua cuộc đời đúng đắn, không lầm lạc. Hiện nay thế gian đang khổ vì không quan sát đúng những "sự việc gặp gỡ" ấy. Trước những "sự việc gặp gỡ" ấy ta hồi tưởng lại bao nhiêu là phản ứng của ta đối với nó trong quá khứ, bao nhiêu là khuynh hướng của ta trong hiện tại, rồi ta vội vàng hành động. Như vậy là điên cuồng. Ta cứ để cho hình ảnh thật tự nó in vào đầy đủ trong tâm thức ta. Trái lại, hiện nay ta không chịu chờ có một hiểu biết đầy đủ nào về "sự việc gặp gỡ" đó. Những nét sơ thiển của nó đủ ảnh hưởng ta và khiến ta vội vàng hành động.

 

Thí dụ, quý vị thử xem một điều gọi là ác. Quý vị nên nhìn nó một cách khách quan, thay vì để những phản ứng thường tình do nó gây nên xen vào trong tâm thức quý vị. Quý vị hãy cố gắng đạt hết ý nghĩa của cảnh tượng ấy. Hãy vô tư, hãy thành thật, hãy bình tĩnh xem. Hãy nhìn nó cho lâu, đừng để cho những dục vọng, những cảm kích, những quan niệm mà cảnh tượng ấy có thể gợi lên trong tâm thức quý vị, làm xao xuyến quý vị. Ðừng kết luận, cũng đừng ước đoán. Cứ chỉ nhìn, nhìn một cách khách quan, thì chắc chắn rằng bộ mặt giả dối bên ngoài của điều xấu sẽ mất đi và quý vị sẽ không bị sai lầm. Cái bề ngoài dễ thương của mọi điều ác quyến rũ một số không ít những người nhẹ dạ, không nghi ngờ gì cả, nhưng sẽ biến mất trước cái nhìn chăm chăm, không lay chuyển của người quan sát khách quan. Và người này sẽ thấy vạn vật dưới ánh sáng thật của nó. Quý vị sẽ thấy vạn vật đúng chân tướng của nó và một khi quý vị thấy vạn vật đúng theo chân tướng của nó thì quý vị không còn là nạn nhân của si mê nữa.

 

Trong đời sống hàng ngày ở thế giới bận rộn ngày nay cũng còn có cơ hội cho quý vị trở về với sự yên lặng của Tâm và hành "Niệm" đôi chút.

 

Có người cho rằng ngồi yên, không động đậy tay chân đến cả nửa giờ, dù có ngồi trên một chiếc ghế êm đi nữa, cũng rất là khó.

 

Quý vị hãy nhìn chung quanh quý vị mà xem. Quý vị sẽ thấy toàn là sự động cả; và sự động sẽ đem ta đến náo động. Tất cả những cảm giác về yên tĩnh đều mất hết, và khi sự yên tĩnh mất đi rồi thì Tâm ta mất hẳn quân bình của nó. Sự yên tĩnh là bước đầu trên con đường đi đến tâm thần thanh tịnh và tráng kiện. Rõ ràng hiện nay con người thiếu hẳn sự yên tĩnh. Một bữa nào đó quý vị thử làm một lần xem: Quý vị bỏ chỗ náo nhiệt, đi tìm một nơi nào yên tĩnh đoạn ngồi lại đó. Trong lúc Tâm đang bị chao, ngồi yên như vậy quý vị sẽ cảm thấy nó được vô cùng thơ thới. Như thế không những làm cho thân quý vị được an mà Tâm quý vị cũng nhờ đó mà lắng xuống, yên tĩnh, vững vàng. Tịnh được như vậy không khác nào Tâm ta được một liều thuốc bổ và chỉ trong một phút yên tĩnh ngắn ngủi như vậy, quý vị cũng đủ cảm thấy phần nào như quý vị thức tỉnh trong tâm trạng an lành và vững chắc.

Ðời sống hiện tại làm cho ta hàng phút phải động luôn luôn, muôn nghìn hoạt động tấp nập xoay chuyển chúng ta, chúng ta sống trong hoàn cảnh lo âu bấn loạn, căng thẳng: Ðó là bao nhiêu lý do làm cho ta phí sức rất nhiều. Vậy thì, trong một dịp nào đó, quý vị thử ngồi yên, chỉ một chút thôi, quý vị sẽ thấy tâm lực của quý vị được bảo tồn nguyên vẹn.

 

Đó là lý do sư hay khuyến khích quý vị hãy ngồi để nhìn từng đối tượng và chiêm nghiệm nó.

 

Niệm đầu tiên là Niệm Thân chỉ cần biết nó trong oai nghi nào: đi, đứng, ngồi hay nằm.

Niệm thứ nhì, là Niệm Thọ: Ðây cũng thế, hành giả phải nhìn đối tượng một cách khách quan. Hành giả không nên đồng nhất mình với loại Thọ mình cảm nhận. Thọ thì có Lạc Thọ, Khổ Thọ và Xả Thọ, và đối với mỗi loại Thọ ấy ta chỉ nên cảm thấy nó mà thôi. Một người đau đớn về thể xác thường hay đồng nhất mình với cảm giác đau đớn ấy, đồng nhất chặt chẽ đến đổi mình không thể xem nó một cách vô tư. Ta coi sự đau đớn là quan trọng nhất. Ta bị nó đè nén nặng nề. Ðối với một Lạc Thọ cũng thế. Niệm Thọ giúp ta tách ra khỏi thân ta và xem những cảm giác với đôi mắt vô tư của người bàng quan.

Vì hiện tại quý vị đang hành pháp niệm tâm.

Loại niệm thứ ba là Niệm Tâm):. Cũng như hành giả phải khách quan mà xem những tác dụng của Thọ trong thân thể mình, thì đây hành giả cũng phải khách quan mà xem những tác dụng của tư tưởng trong Tâm mình. Ta rất có lợi mà nhìn Tâm một cách khách quan. Có phải là hàng ngày ta luôn luôn tiếp xúc với trăm ngàn "khách khứa" (tư tưởng xảy đến cho ta) không? Ðúng vậy. Mỗi ngày trăm ngàn tư tưởng nhập vào Tâm ta. Ðiều này thành một thường lệ, vì ta xem những tư tưởng đến viếng Tâm ta là một sự kiện dĩ nhiên. Mỗi tư tưởng phát sinh ra đều ảnh hưởng ta hoặc một cách tốt đẹp hoặc một cách xấu xa.

 

Tuy nhiên, tư tưởng sau có thể sửa đổi ảnh hưởng của tư tưởng trước. Một tư tưởng Sân chẳng hạn, có tác dụng tai hại đối với Tâm ta và chí đến Thân ta nữa; nhưng nếu tư tưởng liền kế đó lại là một tư tưởng có tính chất trái ngược hoặc một tư tưởng ăn năn chẳng hạn, biết mình đã làm quấy, thì tác dụng tai hại của tư tưởng Sân có thể được sửa đổi. Nếu ta tập thành thói quen, nhìn một cách khách quan bất cứ một tư tưởng xấu nào nảy sanh ra, thì ta có thể chận đứng được dễ dàng sự tiến triển của tư tưởng xấu ấy.

 

Thực hành Niệm tâm có nghĩa là đào luyện thành thói quen lối nhìn một tư tưởng thật khách quan, chứ không chủ quan, và nhận thức rõ rệt sự hiện diện của nó. Không một tư tưởng nào được vào Tâm ta mà ta không hay biết rõ ràng. Chừng ấy ta mới khỏi bị tư tưởng sai khiến. Khi một tư tưởng Sân nổi lên, ta phải hoàn toàn hay biết và tự nhủ: "Hãy coi chừng, một tư tưởng sân đã vào Tâm ta rồi". Tự quan sát như thế đem lại kết quả tinh vi: Tư tưởng Sân mất tánh cách cưỡng bách của nó. Nó đã kiệt sức và không thể phát biểu ra ngoài bằng một hành động Sân. Phương pháp nhìn một cách khách quan bất cứ tư tưởng nào làm cho hành giả tránh khỏi ảnh hưởng tai hại của nó. Mỗi khi một tư tưởng xấu vào Tâm hành giả thì như người gác cửa soát vé  (niệm) đang canh phòng liền xé vé mà thôi "người khách" đến ấy và báo cho hành giả biết để cảnh giác; chừng ấy hành giả có thể khiến một tư tưởng có tánh chất trái ngược đến làm cho tư tưởng xấu kia vô năng, vô hiệu.

 

Nhìn vào Tâm mình không phải luôn luôn là một chuyện dễ. Con người thường hay tránh việc nhìn thẳng thắn vào Tâm mình bởi vì, nếu nhìn rõ Tâm mà hay biết được tư tưởng xấu xa thầm kín, điều ấy sẽ phá vỡ cái thành kiến tốt đẹp mà mình sẵn có đối với chính mình. Thực hành niệm tâm không gián đoạn sẽ giúp hành giả thấu hiểu rằng những tư tưởng của mình không phải là mình. Hành giả sẽ không đồng nhất mình với tư tưởng. Hành giả sẽ chứng được rằng, cũng như thân này, Tâm đây cũng chẳng phải là một thực thể, mà là một phối hợp tạm thời của những sự vật nhất thời. Sự phối hợp tạm thời ấy cho ta cái ảo tưởng rằng có một thực thể trường tồn. Những thành phần phối hợp là vô thường và phải chịu biến chuyển như thế nào, thì vật được thành phần ấy phối hợp cũng vô thường và cũng phải chịu sự biến chuyển như thế ấy. Cũng như xác thân chỉ là sự phối hợp của tóc, thịt, móng, răng, toàn là những vật phải bị hoại diệt, thì Tâm cũng chỉ là sự phối hợp, hoặc nói cho đúng hơn, là sự kế tiếp của những tư tưởng mà tất cả đều hiện ra chỉ để rồi biến mất.

 

Tâm ví như dòng nước chảy. Dòng tư tưởng tạo ra cái ảo tưởng rằng có thực thể Tâm. Ví như những giọt nước kế tiếp nhau rớt xuống thật nhanh cho ta cảm tưởng rằng có một đường nước chảy. Những tư tưởng cũng thế, nó nối nhau nhanh chóng cho đến đỗi ta lầm tưởng rằng có một thực thể gọi là Tâm. Chỉ nhờ thực hành (niệm tâm), ta mới thấy được rằng bản chất của tư tưởng là vô ngã và tư tưởng đều là những hiện tượng rõ ràng là nhất thời. Nó đến rồi đi, nó hiện ra rồi biến mất. Như thế hành giả đã chứng ngộ sự sinh diệt của tư tưởng. Vậy, đối với tư tưởng, hành giả cũng không thấy có gì làm nền tảng đúng lý cho quan niệm "Tôi" hoặc "Của Tôi". Không thể nói "Tôi Tư Tưởng", nhưng phải nói "Có Sự Tư Tưởng". Trong những sự tiến triển nhất thời ấy, không có một thực thể trường tồn nào có lợi cho ta bám níu hoặc đáng cho ta bám níu. Hành giả không tùy thuộc nơi nào cả, không bám níu gì cả trên thế gian này. Hành giả thấy được sự sinh diệt của vạn vật. Hành giả đã đạt đến một tầng cao hơn, và Niết Bàn nằm trên con đường ấy.

 

* * *

 

Giờ đây chúng ta nói đến loại Niệm cuối cùng, khác hẳn với các loại Niệm đã kể trên, là Niệm Pháp. Danh từ (PHÁP) đây có một nghĩa rất đặc biệt. Nó có nghĩa là "thành phần của tư tưởng" hoặc "đối tượng của Tâm", và nó đặc biệt ám chỉ Năm Chướng Ngại: Tham dục, thù hận, hôn trầm thùy miên, phóng dật hối tiếc và hoài nghi); Ngũ Uẩn; Lục căn; Thất Giác Chi và Tứ Diệu Ðế. Ðó là những (PHÁP) được đề cập trong Tứ Niệm Xứ Kinh.

 

Nhờ sự kinh nghiệm hàng ngày, hành giả biết quan sát những " PHÁP" ấy (đối tượng đặc biệt của Tâm). Hành giả phải chú ý đến những pháp đó nếu nó đã phát sinh trong tâm mình, và nếu nó không có phát sinh trong Tâm mình, hành giả cũng phải hay biết rằng nó không có phát sinh trong Tâm mình. Ðiều quan trọng không phải là sự hiểu biết những " PHÁP" đó bằng lý thuyết. Ta phải "HIỂU" nó và thấu rõ nó khi nó phát sinh.

 

Như về Năm Chướng Ngại chẳng hạn, ta không nên chỉ biết bằng lý thuyết rằng nó là những điều cản trở cho sự tiến bộ của ta trên con đường tu luyện, mà việc chánh yếu là ta phải coi chừng cẩn thận, hễ nó phát sinh trong Tâm ta là ta phải hay biết liền. Cùng thế ấy, mỗi khi một chân lý phát hiện trong Tâm hành giả, như Khổ Ðế chẳng hạn, hành giả phải hay biết nó ngay. Lối hành thiền này vừa là một liều thuốc giải độc cho những tư tưởng xấu, vừa là một sự chuẩn bị đón tiếp những Chân Lý trong Phật Pháp. Như vậy tất cả những kinh nghiệm hàng ngày của hành giả được đem ra đối chiếu và chứng y với những giáo điều trong Phật Pháp ở một điểm nào đó. Quán tưởng như thế về đối tượng của Tâm khi nó phát sinh, hành giả một lần nữa thấy rằng không có một thực thể trường tồn nào có lợi cho ta bám níu hoặc đáng cho ta bám níu. Hành giả không tùy thuộc gì cả, không bám níu gì cả. Lần nữa hành giả đạt đến một tầng cao hơn, và Niết Bàn nằm trên con đường ấy.

 

* * *

TỪ, BI, HỶ, XẢ.

 



TỪ, BI, HỶ, XẢ.

 

Hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu về cách tu tập bốn Phạm trú:

 

1. Từ (mettā)

2. Bi (Karuṇā)

3. Hỷ (muditā)

4. Xả (upekkhā)

 

TỨ VÔ LƯỢNG TÂM, là "bốn trạng thái tâm thức vô lượng", còn được gọi là Tứ phạm trú, "bốn cách an trú trong cõi Phạm" hay gọi là Tứ vô lượng tâm và gọi tắt là Từ, bi, hỷ, xả. Là thuật ngữ chỉ một phép thiền định, trong đó hành giả tạo điều kiện cho bốn tâm thức cao thượng phát sinh. Bốn tâm vô lượng là:

 

Từ vô lượng

Bi vô lượng

Hỉ vô lượng

Xả vô lượng

Bốn tâm này đối trị bốn phiền não là sân hận, ganh tị, buồn bực và tham muốn. Thực hành Tứ vô lượng, thiền giả sẽ tái sinh tại cõi Thiên (deva).

 

Phật Thích-Ca Mâu-Ni giảng về phép thiền định này như sau:

 

"Có bốn vô lượng. Hỡi các, một người tràn đầy tâm từ (bi, hỉ, xả) sẽ phóng tâm đó đi một phương, hai phương, ba phương, bốn phương, rồi phía trên, phía dưới, xung quanh mình. Người đó phóng tâm đi khắp thế giới, chiếu rọi khắp nơi với tâm từ (bi, hỉ, xả), tâm thức vô lượng vắng bóng sân hận và phiền não."

 

TỪ VÔ LƯỢNG

Còn gọi là Tâm từ, từ tâm, lòng từ trầm tĩnh trìu mến dễ chịu phản nghĩa là sân hận. Tình yêu vô bờ bến nhưng không phải là tình yêu trai gái mà lại to lớn đồng đều dành cho tất cả chúng sinh vạn vật chứ không vị kỷ đối tượng, là cái gì làm cho lòng ta êm dịu mát hay tâm trạng của người bạn tốt, là chân thành ước mong tất cả bá tánh đều sống thật sự an lành hạnh phúc. " Chân Thiện Mỹ " "thiện" là thiện cảm thiện chí thành ý đối cả ác cảm ác ý thành kiến.

 

Tu tập tâm từ

Như vậy, để đồng hóa mình với mọi người theo cách này, và làm cho tâm dịu dàng, thân ái, trước tiên hành giả phải tu tập tâm từ đối với chính mình với ý nghĩ như sau:

 

1. Cầu mong cho tôi thoát khỏi hiểm nguy

2. Cầu mong cho tôi thoát khỏi khổ tâm

3. Cầu mong cho tôi thoát khỏi khổ thân

4. Cầu mong cho tôi được an vui, hạnh phúc

 

Khởi đầu bằng việc tu tập tâm từ cho chính mình? Thực sự nó không đắc được dù chỉ là cận định, nhưng vì khi hành giả đã tu tập tâm từ cho bản thân mình, với ý nghĩ "Cầu mong cho tôi được an vui", rồi hành giả mới có thể đồng hóa mình với mọi người; để thấy rằng nếu ta muốn được an vui, không muốn đau khổ, muốn được sống lâu, không muốn chết như thế nào, thì những người khác cũng muốn được an vui, không muốn khổ, muốn được sống lâu, không muốn chết như thế ấy.

 

Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn. Vì vậy, tâm từ mà hành giả tu tập cho bản thân mình được mạnh mẽ và có năng lực thật là quan trọng. Một khi tâm hành giả đã trở nên dịu dàng, nhân ái, hiểu biết và có sự đồng cảm đối với tha nhân, lúc ấy hành giả có thể tu tập tâm từ đối với họ.

 

Làm thế nào để phá bỏ ranh giới

 

Khi hành giả tu tập tâm từ liên tục như vậy, hành giả sẽ thấy rằng tâm từ của mình đối với những người mình kính mến, và những người thân thiết trở nên bằng nhau, và hành giả có thể xem họ như một, tức như chỉ là người mình thích. Lúc đó hành giả sẽ chỉ còn bốn loại người này:

 

1. Bản thân.

2. Người hành giả thích.

3. Người hành giả không ưa không ghét.

4. Người hành giả oán ghét.

 

Hành giả cần tu tập tâm từ liên tục đối với bốn loại người này, cho tới khi tâm từ đối với họ trở nên quân bình, không có sự phân biệt. Mặc dù hành giả không thể đắc thiền tâm từ với chính bản thân mình làm đối tượng, song vẫn cần phải kể chung vào đấy để quân bình bốn loại.

 

"Này các Thiền giả, khi từ tâm giải thoát được trau dồi, được tu tập, được thực hành, được làm thành cỗ xe, được làm thành nền tảng, đựơc an trú, được củng cố, và thọ trì đúng cách, thời mười một lợi ích có thể trông đợi. Thế nào là mười một? (1) Người ấy ngủ an lạc; (2) thức an lạc; (3) không ác mộng; (4) được loài người thân ái (5); các hàng phi nhân thân ái; (6) chư thiên bảo hộ; (7) không bị lửa, thuốc độc, binh khí xúc chạm; (8) tâm dễ đắc định; (9) sắc mặt trong sáng; (10) lúc chết không rối loạn; và (11) nếu không đắc cao hơn, người ấy sẽ tái sanh Phạm Thiên giới."

 

BI VÔ LƯỢNG

 

Bi là sự thương xót cảm thông vô hạn là liều thuốc chữa chứng bệnh hung bạo độc ác. Định nghĩa là động lực làm cho tâm người tốt rung động trước sự đau khổ của kẻ khác, hay là cái gì thoa dịu niềm khổ đau của người khác, là hy vọng sẽ giúp chúng sinh thoát khỏi đau khổ.

 

Tu tập tâm bi

Một khi hành giả đã tu tập tâm từ như vừa mô tả ở trên được rồi thì việc tu tập phạm trú Bi vô lượng sẽ không khó. Để tu tập tâm bi, trước hết hành giả phải chọn một người cùng phái với mình đang chịu đau khổ. Hành giả phải làm khơi dậy lòng bi mẫn đối với họ bằng cách suy xét đến nỗi khổ đau mà họ đang gánh chịu.

 

Hành giả tu tập tâm bi đối với người đang đau khổ đó với ý nghĩ:  

"Cầu mong con người hiền thiện này thoát khỏi khổ đau".

Đọc trong tâm vậy nhiều lần, lập đi lập lại cho tới khi hành giả thuần thục.

 

Sau đó, hành giả sẽ tu tập tâm bi như đã làm với tâm từ, đó là, tu tập cho bản thân, cho một người hành giả thích, một người hành giả không thích cũng không ghét, và một người hành giả oán ghét, cho tới khi các ranh giới được phá bỏ.

 

Muốn tu tập tâm bi đối với những chúng sanh không có phương diện đau khổ nào rõ ràng cả, hành giả phải suy tư trên sự kiện rằng mọi chúng sanh chưa giác ngộ đều phải cảm thọ những kết quả của điều ác mà họ đã làm trong quá trình lang thang qua vòng từ sanh luân hồi, vì vậy có lúc phải tái sanh trong bốn ác đạo (địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh và atula). Hơn nữa, mọi chúng sanh đều đáng thương tâm, vì họ chắc chắn không thoát khỏi cái khổ của già, đau và chết.

 

Sau khi suy xét như vậy, hành giả cũng tu tập tâm bi như đã tu tập tâm từ, tức là tu tập tâm bi đối với chính bản thân mình và hai loại người thông thường cho tới khi các ranh giới được phá bỏ.

 

HỈ VÔ LƯỢNG

 

Là tâm hoan hỷ, vui thích với hạnh phúc của người khác, trước sự thành công của một chúng sinh. Là một trạng thái bình tĩnh và hạnh phúc của tâm. Tâm Hỷ đối nghịch ưu phiền não có chiều hướng loại trừ lòng ganh tỵ, đố kỵ.

 

Tu tập tâm hỷ

Muốn tu tập tâm Hỷ vô lượng hay Hỷ phạm trú, hành giả phải chọn một người cùng phái với mình và đang hạnh phúc, người mà hình ảnh của họ làm cho hành giả sung sướng, và người mà hành giả rất thích được thân thiện với họ.

 

Và tu tập tâm hỷ đến người đang hạnh phúc ấy với ý nghĩ:

"Cầu mong con người hiền thiện này không phải xa lìa những thành công y đã đạt được".

Lập đi lập lại như vậy nhiều lần cho đến hành giả thuần thục.

Kế tiếp hành giả tu tập thiền tâm hỷ cho chính bản thân mình và ba loại người thông thường cho tới khi các ranh giới đã được phá bỏ. Cuối cùng hành giả tu tập tâm hỷ đối với tất cả chúng sanh trong vũ trụ vô biên.

 

XẢ VÔ LƯỢNG

Lòng buông xả, không câu chấp bám chặt vào bắt cứ điều gì. Là từ bỏ tham lam ích kỷ, vị kỷ, coi mình là trung tâm. Tâm xả bình thản trước sự coi thường, phỉ báng, nguyền rủa là có chánh niệm và chánh định, thản nhiên trước sự tráo trở của tình người vì biết vọng tâm này luôn biến đổi, đời là bể khổ mà vẫn ung dung không bận lòng trước hoàn cảnh thuận nghịch vì biết mọi hiện tượng luôn chuyển biến theo quá trình hoạn diệt hoặc suy luận vô tư, tức không luyến ái cũng không lãnh đạm không ưa thích cũng không bất mãn không vui quá mà cũng không u sầu, vinh nhục tim không động.

 

Tu tập tâm xả

Sau đó chọn một người cùng phái với hành giả và còn sống, đối với người này hành giả không thương cũng không ghét (có thái độ dửng dưng), và tu tập tâm từ, bi và hỷ đến họ. Rồi suy xét đến những bất lợi của ba phạm trú (từ, bi, hỷ) đó, nghĩa là thấy chúng gần với lòng thương yêu, với ưa và ghét, với hãnh diện và mừng vui. Sau đó suy xét đến y cứ trên xả là an tịnh hơn. Rồi hành giả tu tập tâm xả đối với người mình không ưa không ghét ấy với ý nghĩ:

 "Con người hiền thiện này là kẻ thừa tự của nghiệp riêng của y.

Lập đi lập lại điều này nhiều lần cho tới khi hành giả thuần thục.

Cuối cùng tu tập tâm xả vô lượng này tới tất cả chúng sanh trong vũ trụ vô biên.

 

Đến đây hoàn tất việc tu tập Bốn phạm trú hay Tứ Vô Lượng Tâm.

Sở dĩ gọi là "Bốn Thiền Bảo Hộ" vì chúng bảo vệ cho người hành thiền (thiền giả) khỏi các loại hiểm nguy.

Chính vì lý do này mà việc học và tu tập chúng trước khi tiến hành tu tập thiền Minh Sát (vipassanā) là điều đáng phải làm.

 

Khi các chúng sanh ấy được thấy rõ ràng rồi, hành giả có thể tu tập tâm từ đến họ theo năm phạm trù không nêu rõ, và bảy phạm trù có nêu rõ, tổng cộng là mười hai. Ở mỗi phạm trù hành giả nên rải tâm từ theo bốn cách:

 

1. Cầu mong họ thoát khỏi hiểm nguy

2. Cầu mong họ thoát khỏi khổ tâm

3. Cầu mong họ thoát khỏi khổ thân

4. Cầu mong họ được an vui, hạnh phúc...

 

"Họ" ở đây là một trong mười hai phạm trù đã kể, như tất cả chúng sanh, tất cả chư thiên v... Như vậy hành giả sẽ rải tâm từ tổng cộng bốn mươi tám cách [(7+5)4)=48].

 

Nếu thiền giả muốn tu tập đầy đủ niệm tâm từ khi thành thạo rồi, hành giả có thể tiến hành sang phạm trù mười hướng.

 

Tu tập Phạm Trù Theo Mười Hướng

 

Các phạm trù rải tâm từ theo mười hướng bao gồm bốn mươi tám phạm trù đã bàn đến trước đó ở mỗi trong mười hướng.

Hành giả phải thấy tất cả chúng sanh trong toàn thể vũ trụ vô biên theo hướng Đông của hành giả, và mở rộng tâm từ đến họ theo bốn mươi tám cách. Rồi cũng làm y vậy đối với hướng Tây của hành giả và các hướng khác.

 

Điều này đưa tổng số lên bốn trăm tám mươi cách mở rộng tâm từ (10x48=480). Nếu thêm bốn mươi tám phạm trù biến mãn tâm từ ban đầu vào, chúng ta có năm trăm hai mươi tám cách mở rộng tâm từ (480+48=528).

 

Khi hành giả thuần thục năm trăm hai mươi tám cách rải tâm từ này, hành giả sẽ kinh nghiệm mười một lợi ích của việc hành tâm từ mà đức Phật đã dạy trong Kinh Tăng Chi (Anguttara Nikāya).

 

Cầu mong cho người hiền thiện được an vui hạnh phúc.

 

Sư tóm tắt lại những gì ngài Thiền sư Pa-Auk Tawya Sayadaw (U Acinna) hướng dẫn, nếu thực tập đầy đủ có 528 đề mục nên sư chỉ hướng dẫn quý vị vài đề mục vừa đủ dùng cho việc hỗ trợ thiền minh sát.

 

THỰC TẬP RẢI TÂM TỪ

 


Hãy chú tâm vào hơi thở của bạn trong giây lát.

 

Hãy soi lòng mình xem có điều gì lo âu,

sợ hãi, đau đớn, ganh ghét, ăn năn,

chán nản, khó xử, bất an không.

 

Nếu có,

hãy để chúng trôi đi như một đám mây đen.

 

*

 

Hãy để sự ấm áp,

thân thương dành cho chính bản thân mình tràn đầy trong lòng,

vì chỉ có ta là người bạn tốt nhất của chính mình.

 

Hãy trùm phủ tâm bạn với những tư tưởng thương yêu,

tự bằng lòng phát xuất từ nội tâm.

 

*

 

Hãy bao bọc người gần kề bên bạn với những tư tưởng thương yêu,

che phủ người đó trong bình an và chúc cho người đó được hạnh phúc.

 

Hãy trùm phủ mọi người chung quanh với những tư tưởng thương yêu.

 

Hãy để cảm giác bình an đến với mọi người nơi đây,

và hãy tự coi mình là bạn tốt của mọi người.

 

*

 

Hãy nghĩ tới cha mẹ, dầu cho họ còn tại thế hay đã mất.

 

Bao bọc họ với tình thương.

 

Phủ đầy bình an lên họ và biết ơn tất cả

những gì họ đã làm cho bạn,

hãy là người bạn tốt của họ.

 

*

 

Hãy nghĩ đến những người gần gủi,

thân thiết nhất của bạn.

 

Hãy yêu thương họ,

trao tặng cho họ món quà của sự bình an

mà không trông đợi một sự đáp trả nào.

 

*

 

Hãy nghĩ đến các bạn bè.

Hãy mở lòng ra với họ,

để cho họ thấy tình bạn của ta,

sự quan tâm, tình thương của ta,

tất cả ta dành tặng cho họ

mà không mong đợi một sự đáp trả nào.

 

*

 

“Hãy nghĩ đến hàng xóm láng giềng của ta,

bạn đồng nghiệp,

những người ta gặp ngoài đường,

ở phố chợ, hãy đối xử với họ như bạn bè,

hãy để họ đến với bạn mà không nghi ngại gì. “

 

Hãy chỉ cho họ biết yêu thương.

 

*

 

“Hãy nghĩ đến những kẻ ta không thích

hay người đã có tranh cãi với ta,

người làm khó ta,

những người ta không coi là bạn.

 

 Hãy nghĩ đến họ với sự biết ơn,

như thể họ là vị thầy đã dạy

cho ta biết về chính những hành động của mình.

 

Hãy trải lòng đến họ,

vì chính họ cũng có những khổ đau riêng.

Hãy tha thứ và lãng quên.

Hãy làm bạn với họ.

 

*

BI

Hãy nghĩ đến những kẻ bất hạnh hơn ta,

bịnh nhân trong bịnh viện, kẻ tù tội,

trẻ bơ vơ trong các cô nhi viện hay ở các xứ sở có chiến tranh,

kẻ đói khát, tàn tật, mù lòa, cô đơn, vô gia cư,

những kẻ khó nghe được Pháp.

 

Hãy mở rộng lòng ra với họ.

Hãy làm bạn với họ,

chỉ cho họ biết yêu thương,

cầu mong cho họ được hạnh phúc.

 

*

HỶ

Hãy trở về với bạn.

Cảm thấy an lạc từ bên trong vì đã có những ý nghĩ thiện,

hạnh phúc đến từ lòng thương yêu,

và hỉ lạc đến từ sự bố thí.

Hãy nhận biết những tình cảm nầy,

hãy kinh nghiệm sự ấm áp chúng tạo ra trong ta,

chung quanh ta.

 

Hãy cầu mong mọi người được hạnh phúc.

 

*

Tâm Xả

Niệm thầm hai câu sau cho thuần thục.

 

“Nguyện cho tôi luôn luôn giữ tâm bình thản.”

“Nguyện cho tôi luôn có thái độ vô tư, thản nhiên, an tỉnh với tất cả chúng sanh."