Sunday, August 30, 2015

CON ĐƯỜNG ĐỘC NHẤT (THE ONLY WAY)



BỐN NIỆM XỨ
CON ĐƯỜNG ĐỘC NHẤT (THE ONLY WAY)
hay CON ĐƯỜNG TRỰC TIẾP (THE DIRECT PATH)

Đây là bài ​​giảng vô cùng  quan trọng của Đức Phật về thiền chánh niệm, với sự quan tâm đặc biệt cho phát triển cái nhìn sâu sắc. Đức Phật bắt đầu bài pháp thoại bằng cách tuyên bố rằng bốn niệm xứ là con đường trực tiếp hay là con đường thẳng tắp dẫn đến việc thực hiện chứng ngộ Niết Bàn. Sau đó Ngài cho chi tiết hướng dẫn trên bốn nền tảng quán: Thân, Thọ, Tâm và Pháp.

Phương pháp Bốn niệm xứ này được Đức Thế Tôn thuyết minh trong bốn điều quán niệm: 1) Quán niệm về thân thể, 2) Quán niệm về cảm thọ, 3) Quán niệm về tâm ý, và 4) Quán niệm về các pháp.

Phương pháp này giúp người tu thiền đạt được trí tuệ, thấy rõ sự thật: 1) Nơi thân là "Bất tịnh", 2) Cảm thọ là "Khổ", 3) Tâm là "Vô thường", và 4) Pháp là "Vô ngã", và do đó giải thoát tự tại đối với cuộc đời.
Đức Thế Tôn xem phương pháp Bốn niệm xứ này như là "con đường duy nhất hay là con đường trực tiếp" khiến các loài hữu tình được thanh tịnh,tỏ ngộ chân lý, chứng đạt Niết bàn.

Chúng tôi giới thiệu 3 bản dịch của cố Hòa Thượng Thích Minh Châu, và cũng giới thiệu bản dịch Anh ngữ của Thầy Thanissaro để qúy độc giả tiện bề tham chiếu vì có một số độc giả cho biết bản dịch Anh ngữ dễ hiểu và rõ ràng hơn.

Có một điểm cần để ý là bản dịch của Thầy Minh Châu dịch là (Thiền Bốn Niệm Xứ) “là con đường độc nhất”.

-  Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Đó là Bốn Niệm xứ.
Còn bản dịch Anh ngữ của Thầy Thanissaro dịch là   “Đây là con đường trực tiếp …”
-  The Blessed One said this: "This is the direct path for the purification of beings, for the overcoming of sorrow and lamentation, for the disappearance of pain and distress, for the attainment of the right method, and for the realization of Unbinding -- in other words, the four frames of reference. 

Chúng ta thử hình dung Niết Bàn là một điểm A trên bản đồ với nhiều đường đi đến: bằng máy bay, tầu thủy, xe auto, xe gắn máy và đi bộ. Đi bằng máy bay cũng có nhiều lộ trình khác nhau và đường bộ cũng có nhiều đường đi khác nhau.Tùy khả năng và nhân duyên của mỗi người mà áp dụng phương tiện thực hành. Con đường  hay phương pháp thanh tịnh tâm cũng thế, có nhiều phương pháp khác nhau.  Trong nhà Phật có tới tám vạn bố nghìn pháp môn tu tập. Có lẽ Thượng Tọa Thanissaro khi chuyển ngữ chắc chắn thấy rõ điều đó nên không sử dụng từ ngữ “Only way”.

Thiền Bốn Niệm Xứ này được Đức Thế Tôn giảng tại hai nơi khác nhau, được ghi lại trong ba bộ kinh:
Trong ba bản kinh, Bản kinh "Bốn Niệm Xứ" trích từ Kinh Tương Ưng Bộ (Samyuttanikaya). So với các kinh cũng nói về Bốn niệm xứ (Trường bộ kinh số 22, Trung bô kinh số 10) thì bản kinh này ngắn và gọn hơn.
Cả ba bản kinh trên đều được lưu trữ tại Thư Viện Hoa Sen. Chúng tôi trích dưới đây để quý độc giả tiện tham khảo:

Đại Tạng Kinh Việt Nam
KINH TƯƠNG ƯNG BỘ 
Samyutta Nikàya 
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt - Phật Lịch 2537 - 1993
TẬP V - THIÊN ĐẠI PHẨM
[47] Chương III
Tương Ưng Niệm Xứ
I. Phẩm Ambapàli

1) Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn trú ở Vesàli, tại rừng Ambapàli.

2) Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". "Bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

3) -- Có con đường độc nhất này, này các Tỷ-kheo, khiến cho các loài hữu tình được thanh tịnh, vượt qua được sầu bi, chấm dứt khổ ưu, chứng đạt chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn. Tức là bốn niệm xứ. Thế nào là bốn?

4) -- Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời... trú, quán thọ trên các cảm thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm... trú, quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác... trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.

5) Có con đường độc nhất này, này các Tỷ-kheo, khiến cho các loài hữu tình được thanh tịnh, vượt qua được sầu bi, chấm dứt khổ ưu, chứng đạt chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn. Con đường ấy tức là bốn niệm xứ.

6) Thế Tôn thuyết như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn nói.

Saturday, August 29, 2015

Buông Bỏ Lửa Tham Dục



Giáo Pháp Đức Phật dạy tất cả là về sự hiểu biết khổ - nguồn gốc của khổ, sự chấm dứt khổ, và con đường dẫn đến diệt khổ. Khi chúng ta quán niệm sự khổ, chúng ta tìm thấy chúng ta đang có tham vọng, bởi vì tham vọng và đau khổ là những điều tương tự.
Tham vọng có thể được so sánh với lửa. Nếu chúng ta nắm bắt lửa, những gì xảy ra? Liệu nó có dẫn đến hạnh phúc không? Nếu chúng ta nói: 'Ôi, hãy nhìn vào đóm lửa nó thì rất đẹp! Hãy nhìn vào màu sắc đẹp đó! Tôi yêu màu đỏ và màu da cam, nó là màu sắc tôi yêu thích, 'và sau khi nắm bắt được lửa, chúng ta sẽ cảm nhận một số đau khổ nhất định nhập vào cơ thể. Và sau đó nếu chúng ta suy ngẫm về nguyên nhân của sự đau khổ đó, chúng ta sẽ nhận ra rằng đó là kết quả của việc nắm bắt lửa. Với những điều đó, hy vọng chúng ta sẽ buông bỏ lửa. Một khi chúng ta đã buông bỏ lửa, sau đó chúng ta biết rằng nó là một cái gì đó không dính mắc. Điều này không có nghĩa là chúng ta phải ghét lửa, hoặc đặt nó ra ngoài. Chúng ta có thể tận hưởng lửa, có thể không? Điều tốt đẹp để có một ngọn lửa, nó giữ cho căn phòng ấm áp, nhưng chúng ta không để mình bị đốt cháy bởi nó.

Khi chúng tôi thực sự quán xét sự đau khổ, chúng ta không còn nặng về nắm giữ các ham muốn, bởi vì sự ham muốn đem lại đau khổ, không cần thiết để thực hiện nó. Do vậy, từ đó, chúng ta hiểu, "Oh! Đó là lý do tại sao tôi đang đau khổ, đó là nguồn gốc của đau khổ. Ah! bây giờ tôi đã hiểu. Sự nắm giữ mong muốn là nguyên nhân gây cho tôi tất cả đau đớn và khổ sở này, tất cả điều này vì sợ hãi, vì lo lắng, vì momg cầu, rồi tuyệt vọng, rồi hận thù, tham lam, và si mê. Tất cả các vấn đề của cuộc sống đến từ sự nắm bắt và bám vào ngọn lửa của dục vọng.

Thói quen của con người là bám víu vào ước muốn ăn sâu trong lòng. Chúng ta ở Tây Phương nghĩ rằng chúng ta rất tinh tế và học hiểu nhiều, nhưng khi chúng ta thực sự bắt đầu tìm hiểu xem việc gì đang diễn ra trong tâm trí chúng ta, thì thật là đáng sợ – phần lớn chúng ta đều quá vô minh. Chúng ta không có một dấu vết gì về việc chúng ta là ai, hoặc điều gì là nguyên nhân của đau khổ, hoặc cách nào là cách sống đúng nghĩa – hoàn toàn không có một dấu vết gì về những việc này. Rất nhiều người muốn say trong men rượu, mơ trong khói thuốc phiện, và làm bất cứ thứ gì để thoát khỏi đau khổ – nhưng khổ đau của họ vẫn cứ gia tăng. Làm thế nào mà những người Tây Phương chúng ta có thể kiêu căng và tự hào được, có thể coi chúng ta là người văn minh được! Thật vậy, chúng ta được học hành, chúng ta có thể đọc và viết, và chúng ta có những máy móc và những sáng chế tuyệt hảo. Thí dụ như, khi so sánh với những người trong các bộ lạc ở Phi Châu, họ dường như cổ hũ, mê tín, có phải vậy không? Nhưng thật ra thì tất cả chúng ta đều đi chung một chiếc thuyền! Chỉ khác nhau là sự mê tín của chúng ta không giống với họ. Thật sự thì chúng ta cũng tin vào rất nhiều việc.

Chẳng hạn như, chúng ta cố gắng giải thích vũ trụ dựa vào những khái niệm, vì nghĩ rằng khái niệm là thực tế. Chúng ta tin vào lý lẽ, tin vào lập luận – như vậy có thể nói rằng chúng ta tin vào những điều mà chúng ta không biết. Chúng ta không thực sự hiểu nó (vũ trụ) bắt đầu như thế nào và kết thúc như thế nào. Nếu chúng ta đọc một cuốn sách và tin những điều trong sách, tin những điều mà các nhà khoa học nói, chúng ta chỉ tin mà thôi. Chúng ta nghĩ rằng: “Chúng ta thật là tinh tế. Chúng ta tin những điều mà các nhà khoa hoc nói. Những người có bằng tiến sĩ – chúng ta tin những điều họ nói. Chúng ta không tin vào những điều mà các nhà phù thủy nói họ đều là những kẻ ngu đần, dốt nát. Nhưng tất cả đều là niềm tin, có phải vậy không? Chúng ta vẫn không hiểu – nhưng nghe có vẻ hay. Đức Phật nói chúng ta nên tự mình tìm ra chân lý và như vậy chúng ta sẽ không phải tin vào người khác.

Chúng tôi quán xét vũ trụ là vô thường, chúng ta có thể thấy bản chất vô thường dưới nhiều trạng thái. Từ chiêm niệm này, trí tuệ phát sinh. Chúng ta không thể tìm thấy gì trong sự thay đổi của những tình trạng có bất cứ thứ liên tục nào. Mọi việc đều có bắt đầu và đều có kết thúc, mọi việc đều phát sinh từ khoảng trống và đều quay lại trong khoảng trống này. Và bất cứ nơi nào chúng ta tìm chúng ta cũng sẽ không tìm thấy bất kỳ loại cá tính vĩnh cửu nào. Lý do duy nhất chúng ta nghĩ rằng chúng ta có cá tính là vì chúng ta có trí nhớ, có ý tưởng và có quan niệm về bản thân chúng ta. Nếu chúng ta thông thái, chúng ta luôn luôn bận tâm, suy nghĩ về mọi thứ. Về cảm xúc chúng ta có thể chưa được phát triển đến mức ném bỏ tất cả các cơn nóng giận, la hét và chửi rủa khi chúng ta không làm được theo ý muốn của chúng ta. Chúng ta có thể nói về các nhà triết học Sophocles và Aristotle, có thể có các cuộc thảo luận tuyệt vời về các đại triết gia Đức và về Ramakrishna, Aurobindo, và Đức Phật, và rồi một người nào đó không thỏa mãn những gì chúng ta muốn và chúng ta nổi cơn giận dữ! Giận sôi tận đỉnh đầu; không có sự ổn định về cảm xúc.

Có một vị sư tôi biết có một thời đã rất phức tạp so với một số các nhà sư khác. Ông đã sống ở Bangkok trong nhiều năm, đã ở trong hải quân Thái Lan, có thể nói tiếng Anh bập bẹ. Ông khá thông minh và rất có ấn tượng. Nhưng ông đã có vấn đề sức khỏe trầm trọng và cảm thấy ông không thể sống được với chỉ một bữa ăn mỗi ngày. Trên thực tế, sức khỏe của ông tồi tệ đến nỗi ông phải hoàn tục [rời khỏi tăng đòan]. Sau đó ông trở thành một người nghiện rượu! Ông có thể diễn thuyết thật xuất sắc trong khi tâm trí bị vỡ nát. Ông đã có trí tuệ, nhưng không có đạo đức hoặc không có tĩnh tâm.

Mặt khác, chúng ta có thể có đạo đức cao và không có trí tuệ. Như vậy thì, chúng ta đang đua đòi trong đạo đức, hoặc mù quáng trong đạo đức. Hoặc chúng ta có thể định tâm và không có trí tuệ. "Tôi đang theo một khóa hành thiền và tôi đã phát triển một số thiền định, một số hiểu biết, nhưng khi tôi về nhà, ồ! Tôi không biết là tôi sẽ có thể hành thiền được nữa hay không, hoặc thậm chí tôi có thời giờ không. Tôi có quá nhiều nhiệm vụ, có quá nhiều trách nhiệm. " Nhưng chúng ta sống cuộc sống bình thường như thế nào thì đó chính là việc hành thiền thực tế. Đi tham dự các buổi an cư để tĩnh tâm là cơ hội để tạm tránh những trách nhiệm và những công việc đang đè nặng lên chúng ta, để có thể có được một cái nhìn tốt hơn về hành thiền. Nhưng nếu các cuộc an cư để tĩnh tâm chỉ được dùng để tạm lánh trong một vài ngày và chỉ vậy thôi, như vậy thì việc tĩnh tâm không có giá trị to lớn chi cả. Mặt khác, nếu những ngày an cư đó được sử dụng để quán tưởng về đau khổ-'Tại sao tôi đau khổ? Tại sao tôi lú lẫn? Tại sao tôi có những rắc rối? Tại sao thế gian lại là như vậy?' sau đó chúng ta sẽ tìm hiểu xem có điều gì chúng ta có thể làm để thoát đau khổ?. Chúng ta sẽ tìm ra bằng cách quán tưởng thân và tâm.

Sự thiếu hiểu biết chỉ là cặn bã trên mặt nước, nó không có chiều sâu, không có quá nhiều vô minh cần phải phá vỡ. Sự khiếm khuyết ở đây và bây giờ, ngòi lửa ở đây và bây giờ, chúng ta có thể cho nó đi. Không cần phải đụng tới ngọn lửa nữa-đó là tất cả những gì cho nó. Nó không phải là một câu hỏi để dập tan đám cháy. Nhưng nếu chúng ta bắt được nó, chúng ta nên để cho nó đi. Một khi chúng ta đã để cho ngọn lửa đi, thì chúng ta không nên bắt nó một lần nữa.

Trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, chúng ta nên có chánh niệm. Chánh niệm nghĩa là gì? Nó có nghĩa là để ý thật cẩn thận ngay ở đây, tập trung ý tưởng vào những gì đang xảy ra trong nội tâm. Ví dụ, Chúng ta đang xem xét một việc gì, và chúng ta cố gắng tập trung vào việc đó, sau đó một tiếng động vang đến, và sau đó một mùi thơm, sau đó một thứ này và sau đó một thứ khác - nhiễu loạn, thay đổi. Chúng ta nói: "Tôi không thể nào có chánh niệm trong môi trường này, nó quá lộn xộn. Tôi phải có một môi trường đặc biệt, không có phiền nhiễu, thì tôi mới có thể chánh niệm được. Nếu tôi đi đến một trong những chỗ an cư, sau đó tôi có thể chánh niệm được, không có phiền nhiễu nơi đó - chỉ có sự thanh tịnh và yên lặng - một sự tĩnh mịch cao quí! Tôi không thể có chánh niệm ở Edinburgh hoặc London-có quá nhiều sự lôi cuốn. Và tôi có gia đình, có con cái, quá nhiều ồn ào! 

Nhưng chánh niệm không nhất thiết phải tập trung vào một đối tượng. Nhận thức được sự nhầm lẫn cũng là chánh niệm. Nếu tất cả mọi thứ dồn đến với giác quan của chúng ta-nào là tiếng ồn, nào là người ta yêu cầu này nọ - chúng ta không thể tập trung lâu dài vào bất kỳ một thứ nào. Nhưng chúng ta có thể nhận thức được sự lộn xộn, hoặc sự hồ hởi, hoặc sự đụng chạm, chúng ta có thể được nhận thức của các phản ứng trong tâm trí của chúng ta. Đó là những gì chúng ta gọi là chánh niệm. Chúng ta có thể lưu tâm đến sự nhầm lẫn và sự hỗn loạn. Và chúng ta có thể lưu tâm đến thanh tĩnh và yên bình.

Con đường chánh niệm là con đường không ưu đãi. Khi chúng ta thích một điều gì hơn một điều khác, thì chúng ta tập trung vào điều đó: "Tôi thích thanh bình hơn là rối loạn." Vì vậy, để có hòa bình, chúng ta làm gì? Chúng ta phải đi đến một nơi nào không có rắc rối, trở thành một ẩn sĩ, đi lên Orkneys, tìm một hang động. Có một lần, tôi tìm thấy một hang động thật lý tưởng ở ngoài khơi bờ biển Thái Lan. Nó nằm trên một hòn đảo nhỏ xinh đẹp ở Vịnh Xiêm La. Và đó là năm thứ sáu mà tôi đã trở thành một tu sĩ. Tất cả những người Tây Phương đã đến với tu viện Wat Pah Pong là tu sĩ Tây Phương. Và họ đã gây cho tôi rất nhiều khổ sở và thất vọng. Tôi nghĩ: 'Tôi không muốn dạy cho những người này, họ là một cái gánh quá nặng, họ đòi hỏi quá nhiều; tôi muốn tránh xa các nhà sư Tây Phương này, càng xa càng tốt. "Năm trước tôi đã trải qua một mùa An Cư [3 tháng tĩnh tâm trong mùa mưa] với năm người khác. Ôi, đó đúng là một mùa An Cư thê thảm nhất! Tôi nghĩ: "Tôi sẽ không chịu đựng như vậy nữa! Tôi không đến đây để chịu đựng như vậy; tôi đến đây để được bình an.' Vì vậy, tôi viện ra một số lý do để đi Bangkok và từ đó tôi tìm thấy hòn đảo này. Tôi nghĩ rằng nó thật hoàn hảo. Họ đã có những hang động trên đảo và những túp lều nhỏ trên bãi biển. Sự thiết lập thật là hoàn hảo cho một tu sĩ. 

Người ta có thể nhận một trong những túp lều và sống trong đó. Và sau đó đi khất thực trong làng. Dân làng đều rất thân thiện, đặc biệt là đối với các nhà sư Tây Phương, vì là một tu sĩ phương Tây quả thật là rất khác thường. Chúng ta có thể dựa vào đó để có tất cả thực phẩm chúng ta có thể ăn, và nhiều hơn nữa. Đó không phải là một nơi có thể dễ dàng đến được, vì nó ở ngoài khơi trong vịnh Thái Lan, và tôi nghĩ: '. Ồ, họ sẽ không bao giờ tìm thấy tôi ngoài này, những nhà sư Tây phương, họ sẽ không tìm thấy tôi ở đây." Và sau đó tôi tìm thấy một hang động, với một Jongram, và nơi đây thật là đẹp. Nó có một phòng bên trong hoàn toàn đen tối và không một thứ âm thanh nào có thể thâm nhập vào được. Tôi đã bò vào trong qua một lỗ hổng và bên trong không có gì. Tôi không thể nhìn thấy hay nghe thấy bất cứ điều gì. Vì vậy, thật là lý tưởng cho việc giảm thiếu cảm giác: "Ồ, đây đúng là những gì tôi đang tìm kiếm, tôi có thể thực hành tất cả các tình trạng thiền tối cao. Tôi có thể đi vào hang động này và chỉ để tu tập hàng giờ mà không có loại kích thích giác quan nào.' Tôi thực sự muốn xem những gì sẽ xảy ra. Nhưng có một vị sư già sống trong hang động này, ông không chắc là ông sẽ ở lại đây không. Dù sao, ông nói tôi có thể có túp lều cỏ trên đỉnh đồi. Tôi đã đi lên đó nhìn, và phía dưới là biển. Tôi nghĩ, 'Ồ, đây cũng là chuyện tốt vì bây giờ tôi có thể tập trung vào biển cả, thật là phẳng lặng.'

Có một nhà sư Thái Lan trên đảo ông là một người bạn rất tốt của tôi và ông nói: "Vâng, họ có thể tìm thấy bạn ở đây, có một hòn đảo cách đây khoảng mười lăm dặm - Họ sẽ không bao giờ tìm thấy bạn ở đó. Có một túp lều nhỏ ở đó, và một ngôi làng nhỏ, dân trong làng rất sẳn lòng chăm sóc của một tu sĩ.” Vì vậy, tôi đã suy nghĩ: " Vậy à, có thể sau mùa An Cư, tôi sẽ đi ra ngoài hòn đảo xa đó."

Thực sự tôi nhứt định trốn thoát. Tôi muốn được thanh thản và tôi thấy các nhà sư Tây phương rất khó hiểu. Họ luôn luôn đặt rất nhiều câu hỏi và đòi hỏi quá nhiều. Vì vậy, tôi đã sắp xếp để sống một mùa An Cư trong khung cảnh thôn dã. Và sau đó - lại bị đau chân! chân phải của tôi đã bị nhiễm trùng nghiêm trọng và họ phải đưa tôi ra khỏi hòn đảo để vào bệnh viện địa phương trên đất liền. Sức khỏe tôi rất kém. Họ không cho tôi đi trở lại đảo và tôi đã phải sống một mùa An Cư trong một tu viện gần thị trấn. Đau buồn, thất vọng và oán giận nổi lên chỉ vì cái chân này, tất cả vì tôi đã gắn bó, quá ham muốn sự tĩnh lặng. Tôi muốn thoát khỏi sự xáo trộn của thế giới, tôi thực sự mong muốn được nhốt mình trong một ngôi mộ nơi mà giác quan của tôi sẽ không bị ảnh hưởng, nơi mà không một nhu cầu nào có thể áp đặt lên tôi, nơi mà tôi sẽ được sống một mình, ẩn danh, vô hình. Nhưng sau đó tôi chiêm nghiệm về thái độ của tôi, tôi nghiệm ra cái ham muốn được thanh tĩnh của tôi. Và tôi đã không tìm kiếm sự tĩnh lặng nữa..

Tôi không bao giờ trở lại hòn đảo đó. Chân tôi đã tương đối lành lặn và tôi lại có một cơ hội để đi đến Ấn Độ. Rồi, sau đó tôi đã trở lại tu viện Wat Pah Pong, và đến lúc đó tôi đã quyết định không chọn lựa hơn kém nữa. Việc tu tập của tôi là "cách thức không phân biệt ", tôi chỉ sẽ nhận những gì khi chúng đến. Trong chuyến trở về tu viện Wat Pah Pong, tôi lãnh trách nhiệm là một người thông dịch cho Ngài Ajahn Chah. Tôi chán ngán phải thông dịch cho người Tây phương, nhưng bây giờ tôi lại là một thông dịch viên. Tôi đã phải làm điều đó, và tôi cũng phải giảng dạy và đào tạo tu sĩ. Sau đó hơn một năm họ thậm chí đã gửi tôi ra ngoài để bắt đầu thực hiện một tu viện của riêng tôi! Trong vòng hai năm có khoảng hai mươi nhà sư Tây Phương sống chung với tôi. Sau đó, tôi được mời đến nước Anh.

Và vì vậy tôi không hề lẫn tránh nơi đông đảo để đi đến hang động đó, vì tôi không còn ham muốn lựa chọn chỗ tốt. Trách nhiệm và việc giảng dạy dường như càng ngày càng nhiều hơn, nhưng đó là một phần của việc tu tập cái gọi là "không ham muốn." Và qua sự tu tập này tôi nhận thấy tâm hồn tôi bình an và thanh thản. Tôi không còn tức giận trước những yêu cầu đòi hỏi nơi tôi, không còn chìm trong sân hận hoặc bối rối trước những trở ngại liên tục xảy ra và trước những nhầm lẫn nảy sinh trong xã hội loài người. Vì vậy sự tu tập này đúng là chánh niệm. Tôi không còn miệt mài mong đợi một sự tĩnh lặng. Sự tĩnh lặng đến và tôi coi đó như là vô thường. Bối rối đến - cũng là vô thường; Thanh thản - cũng là vô thường; chiến tranh - cũng là vô thường. Tôi tiếp tục nhìn bản chất vô thường của mọi tình huống và tôi chưa từng bao giờ cảm thấy thanh thản đối với thế giới nhiều như bây giờ; sống trong nước Anh - nhiều hơn là tôi đã từng sống, hình như là, một vài ngày trên hòn đảo đó. Vào khỏang thời gian đó tôi đã bám víu một cách tuyệt vọng vào những lý tưởng của cái tôi muốn và đi đôi với việc đó là phải đối diện với sự sợ hãi sẽ bị mất đi - Tôi đã sợ rằng người Tây Phương sẽ đến và sẽ làm phiền tôi và sợ rằng khung trời thanh tĩnh của tôi sẽ bị khuấy động. Có một sự ích kỹ rỏ ràng liên quan tới việc từ chối và đóng kín cửa không chấp nhận người khác, và một sự sợ hải rỏ ràng rằng người khác rất có thể sẽ hũy hoại nó. Vì vậy sự ham muốn thanh nhàn này và những điều kiện của nó không thể nào tránh khỏi việc đem theo sự sợ hãi và niềm lo lắng, bởi vì mọi điều kiện đều có thể bị mất đi hoặc bị phá hủy một cách dễ dàng. Tuy nhiên, loại thanh tĩnh mà chúng ta có thể nhận được từ cái "không ham muốn" không thể nào bị lấy đi. Nó không bao giờ bị lấy đi vì chúng ta có thể thích ứng; chúng ta không tùy thuộc vào môi trường để có tĩnh lặng; chúng ta không cần phải tìm kiếm sự tĩnh lặng, hoặc phải chờ đợi nó, hoặc phải tức giận bối rối. Vì vậy, khi chúng ta đối chứng với lời giảng của Đức Phật [ khổ, nguồn gốc của đau khổ, sự diệt đau khổ, và con đường dẫn đến diệt khổ], chúng ta có thể nhận ra rằng Ngài đã dạy chúng ta con đường "không ham muốn."

Đức Phật Ngài đã giác ngộ. Ngài đã dành sáu năm tu khổ hạnh là một sự hành trì yên tĩnh để đạt được đến mứccao nhất của sự hấp thụ, và Ngài nói: "Không! sự tu tập này không đúng! Sự tu tập khổ hạnh vẫn còn đau khổ. Sự tu tập này vẫn còn ảo tưởng. " Và, từ nhận thức rằng Ngài đã tìm thấy con đường Trung Đạo, con đường của "không ham muốn", con đường của tỉnh thức.

Chúng ta không nên mong cầu được yên tĩnh nếu chúng ta đang sống trong một môi trường mà mọi người rộn ràng hoặc không yên tĩnh, hoặc nơi mà chúng ta có nhiều trách nhiệm và nghĩa vụ. Chúng ta không nên nghĩ rằng: "Oh! Tôi muốn được ở một nơi khác, tôi không muốn ở đây ". Sau đó, chúng ta thực hiện một sở thích. Chúng ta nên quan sát quan cảnh chung quanh của cuộc sống mà chúng ta có mặt dù chúng ta có muốn hay không, nó đang thay đổi, dù sao đi nữa, thì nó không quan trọng.

Trong cuộc sống 'cái thích' có xu hướng thay đổi thành 'cái không thích', và ngược lại 'cái không thích' có xu hướng thay đổi thành 'cái thích.' Ngay cả những tình huống vui vẽ cũng thay đổi thành những tình huống tẻ nhạt, và những tình huống tẻ nhạt cũng trở thành vui vẽ. Chúng ta phải nên lưu ý đến nhận thức về vô thường này và phải thản nhiên trước mọi việc đổi thay như vậy, không nên đòi hỏi mọi việc phải diễn ra theo chiều hướng khác. 

Những người chúng ta sống chung, những nơi chúng ta sống trong đó, xã hội mà chúng ta là một phần tử -chúng ta chỉ nên giử sự hài hòa với tất cả mọi thứ. Nhưng quan trọng hơn hết chúng ta nên bình tâm với chính chúng ta-đó là bài học to lớn phải học hỏi trong cuộc sống. Thực ra rất là khó khăn để được bình tâm với chính mình. Tôi thấy rằng hầu hết mọi người đều có rất nhiều bất mãn với chính mình. Tốt hơn hết là chúng ta nên hài lòng, bình tâm với chính thân xác và tâm trí chúng ta hơn bất cứ điều gì khác, và không nên đòi hỏi rằng thân xác và tâm trí chúng ta phải thật là hoàn hảo, và chúng ta phải thật là hoàn hảo, hoặc đòi hỏi rằng tất cả mọi thứ đều tốt đẹp. Chúng ta có thể hài lòng, bình tâm với cả cái tốt lẫn cái xấu.

Với phước báu mà con tạo nên hôm nay xin hồi hướng đến hương linh của mẹ là Thái Huê, cầu mong bà được thượng hưởng phước lành và chóng viên thành đạo quả. 

Phật tử Thiện Pháp Nguyễn Văn Hòa và Minh Hạnh

Friday, August 28, 2015

Câu chuyện này, khi ở Trúc Lâm, bậc đạo sư đã kể lại về một người Bà-la-môn giỏi đoán những điềm báo cho là được thể hiện trên y phục.



 Truyền thuyết nói rằng thời ấy ở thành Vương Xá, một người Bà-la-môn giàu có nhưng hết sức mê tín.

Một hôm, sau khi tắm xong, người Bà-la-môn bảo đem y phục lại và được báo cho biết là áo của ông đã bị một con chuột cái cắn. Người ấy suy nghĩ, “quần áo bị chuột cắn là trong nhà sắp có đại nạn. Đấy là một điềm xấu, như lời nguyền rủa.”

Chuyện tương tự như vậy đã xảy ra trong rất nhiều đời. Bà già chuẩn bị đi bán hàng, ra đến đầu ngỏ gặp… gái (chứ không phải gặp anh hùng). Bà quay trở lại nhà vì nghĩ rằng… xui xẻo, nếu đi buôn bán không được. Một cô mới sáng sớm mở cửa hàng, có người đến xem hàng xem họ… rồi chẳng chịu mua. Thế là cô mắng tét tát người đó vì sợ xui cả ngày. Nếu lỡ gặp người nào… nặng vía (?) thì dù có mở hàng cô cũng nhất định không bán. Nhiều người khi đi chợ, không dám mua mở hàng vì sợ cô hàng xinh đẹp… ế hàng cả ngày sẽ rủa mình một trận. Hoàn toàn tương tự, hàng năm, giới buôn bán đều nhờ thầy xem cho ngày khai trương. Thầy bảo mùng ba tốt thì các cửa hàng đều đồng loạt khai trương, có lẽ vì nhiều thầy nhưng… cùng một sách. Nếu thầy phán mùng bốn sát chủ thì không ai dám mở cửa hàng. Vài năm gần đây, nhiều cửa hàng mở cửa buôn bán qua tết, không nghỉ. Thế là việc khai trương không còn nữa, vì có đóng cửa ăn Tết đâu mà khai trương.

Khi áo bị chuột cắn thì không thể cho con trai, con gái, nô tỳ hay người làm công… Ai lấy y phục này, đại nạn sẽ đến với người xung quanh. Ta hãy quăng nó vào nghĩa địa, chổ quăng xác chết. Nhưng không thể giao cho những nô tỳ đi làm việc này. Chúng có thể  khởi lòng tham, lấy bộ y phục ấy và gặp nạn. Người Bà-la-môn cho gọi con trai và nói rõ sự việc ấy: “ Này con thân, chớ lấy tay chạm vào cái áo này. Hãy lấy gậy mang nó quăng xa vào nghĩa địa rồi tắm cả đâu cho sạch”.

Ông Bà-la-môn này tốt bụng. Ông sợ cái áo xui xẻo kia sẽ gây đại nạn cho người khác. Trong môi trường cạnh tranh hiện nay, thị trường là chiến trường, doanh nghiệp A có thể tìm cách hạ thấp uy tính doanh nghiệp B. Chuyện xui xẻo cho A thành chuyện may của B. Những gì đem lại may mắn thì phải tìm cách giành cho được. Chuyện chen lấn nhau để lấy được ấn đền Trần là biểu tâm lý đó của một số người. Ông Bà-la-môn trong truyện không có tâm lý đó.
Sáng sớm ngày hôm đó, bậc Đạo sư nhìn xem có ai mà ngài có thể hóa độ. Ngài thấy người cha và người con ấy có căn duyên với quả Dự lựu. Như người thợ săn thú, người đi theo con đường thú đi và ngồi trước của nghĩa địa ấy, phóng ra hào quang sâu sắc của Đức Phật.

Đức Phật thấy được sự tốt bụng của cha con ông Bà-la-môn. Ngài biết rằng chỉ cần giúp họ tin vào nhân quả, tin rằng mọi đều có nguyên nhân từ chính mình, rằng làm điều tốt sẽ được điều tốt, làm điều xấu sẽ gặp điều xấu, thì họ không còn mê tính lành dữ nữa.
Thanh niên trẻ Bà-la-môn vâng lời theo cha, mang bộ y phục trên đầu cây gậy, như mang con rắn độc và đi đến cửa nghĩa địa. Bậc Đạo sư hỏi:
Này thanh niên, làm gì vậy?

– Thưa Tôn Giả Gotama, bộ y phục này bị con chuột cái cắn, được xem là lời nguyền rủa, được ví như nọc độc con rắn. Cha tôi sợ rằng nếu giao cho người khác quăng bộ y phục này, họ có thể khởi lòng tham và lấy dùng, nên mới sai tôi. Tôi cầm lấy bộ y phục, hứa rằng tôi sẽ quăng và sẽ tắm cả đầu. Tôi đến đây là vậy, thưa Tôn Giả Gotama!
– Vậy ngươi hãy quăng đi !
Thanh niên Bà-la-môn quăng bộ y phục ấy. Bậc đạo sư nói :
Y phục này thích hợp với chúng tôi .
Tôn giả Gotama , chớ có lấy bộ y phục bị nguyền rủa này.
Đức Phật vẫn lấy bộ y phục và đi về hướng Trúc Lâm .

Nhận luôn vật mang điềm xấu , Đức Phật đã làm cho anh thanh niên ối rối , vì nó ngược với suy nghĩ thông thường . Điều xui xẻo chỉ xảy ra cho hành động xấu trong quá khứ của mình . Điều may mắn chỉ xảy ra cho hành động tốt trong quá khứ của mình , do đó, nếu bị xui xẻo , không phải chỉ do ra ngõ gặp gái , không phải chỉ do khách hàng …nặng vía , không phải chỉ do khai trương không đúng ngày . Nếu được may mắn thì chắc chắn không phải do ấn đền Trần . Nếu nhận thức được điều ấy , người ta sẽ không phải chen lấn lấy bằng được Ấn đền Trần . Nếu nhận thức được điều này , cô chủ cửa hàng sẽ không mắng khách hàng nữa mà còn …cảm ơn . Cảm ơn vì biết phước đức của mình mỏng như cánh hoa tường vi , lẽ đương nhiên là chẳng có ma nào ghé vào cửa hàng của mình . Nay có một người ghé , dù chẳng mua , cũng là đã tốt hơn nhiều . Lẽ ra phải là cám ơn thay vì chửi mắng .
Thanh niên đi rất mau về thưa với cha :
Thưa cha, bộ y phục con quăng ở nghĩa địa; nhưng dù con ngăn cản , Sa-môn Gotama vẫn lấy vì cho là thích hợp và đã đi đến Trúc Lâm !

Người Bà-la-môn suy nghĩ :
Bộ y phục này là điềm xấu , giống như bị nguyền rủa . Dùng nó Sa-môn Gotama sẽ bị tai hại . Do vậy , chúng ta sẽ bị chỉ trích . ta sẽ đem cho Sa-môn Gotama nhiều y phục khác và khiến Sa-môn Gotama quăng bộ y phục đó đi !
Người Bà-la-môn này quả thật có quan tâm đến người khác , ngoài ra ông còn sợ bị mang tiếng nếu Đức Phật bị tai nạn cì sử dụng cái áo bị chuột cắn . Do đó , ông định đem đến cho Đức Phật nhiều áo khác để thay thế .

Người Bà-la-môn cùng với con trai đi đến Trúc Lâm , thấy bậc Đạo sư , đứng một bên và thưa :
Thưa Tôn Giả Gotama , có thật chăng , Tôn giả có lấy một bộ y phục bị vứt ở nghĩa địa ?
Thật vậy , này người Bà-la-môn !
Thưa Tôn giả Gotama , y phục ấy sẽ mang lại điềm xấu . Nếu Tôn giả sử dụng nó sẽ bị tai hại và cả tịnh xá cũng sẽ bị tai hại , nếu Tôn giả không có áo mặc hay áo đắp , hãy lấy những cái áo này và vứt y phục kia đi .
Này người Bà-la-môn , chúng tôi là người xuất gia . Đối với chúng tôi , các mảnh vải vứt ở nghĩa địa , giữa đường , đống rác , chỗ tắm rửa vẫn còn có thể dùng được . Ông vẫn mê tín điềm lành dữ như thuở xưa .

Đức Phật kể lại câu chuyện trong một đời trước , câu chuyện đa từng xảy ra tương tự . Sau khi kể chuyện xưa , Bậc đạo sư đọc bài kệ :
Ai thoát điềm lành dữ
Thoát mộng và các tướng
Vị ấy vượt qua được
Lỗi lầm điềm lành dữ
Hai ách được nhiếp phục
Không còn phải tái sanh

Câu chuyện thuật tiếp rằng , dựa vào bài kệ nói trên , bậc Đạo sư thuyết pháp cho vị Bà-la-môn . Ngài cũng giảng cho hai cha con người Bà-la-môn về Bốn sự thật . Cuối bài thuyết giảng , vị Bà-la-môn cùng với người con trai đều chứng quả Dự lưu .